Bạn đang xem bài viết Bạn Có Biết Lý Do Vì Sao Lại Không Có Giải Nobel Toán Học? được cập nhật mới nhất trên website Thanhlongicc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Alfred Nobel để lại di chúc, dành toàn bộ tài sản của mình để trao giải Nobel tôn vinh những đóng góp quan trọng ở các lĩnh vực y học, vật lý, hóa học, hòa bình và văn chương. Tuy nhiên, lại không có giải thưởng Nobel toán học, vì sao vậy?
Alfred Bernhard Nobel
Alfred Bernhard Nobel (1833 – 1896) là một nhà hóa học, kỹ sư, nhà phát minh, doanh nhân và nhà hảo tâm người Thụy Điển. Nobel phát minh ra ballistite, là tiền thân của nhiều vật liệu nổ không khói được dùng phổ biến sau này.
Trong suốt cuộc đời mình, ông đã có 355 phát minh, trong đó, phát minh thuốc nổ là nổi tiếng nhất. Ông cũng tích lũy được một số tài sản khổng lồ trong lúc sinh thời. Sau khi bị chỉ trích vì đã phát minh ra cách thức giết chết con người nhanh nhất, ông đã quyết định thay đổi di chúc và quyên góp tài sản của mình để thành lập nên chuỗi giải thưởng Nobel trong các lĩnh vực Hóa học, Vật lý, Y học, Văn học và Hòa bình.
Hình ảnh về Alfred Bernhard Nobel (Nguồn: Internet)
Tại sao không có giải Nobel toán học?
Toán học là một bộ môn khoa học rất quan trọng, đóng vai trò rất lớn trong đời sống từ xưa cho đến nay. Vì vậy, đối với nhiều người, việc không trao giải Nobel cho lĩnh vực toán học là một điều bất công khá lớn.
Đã có nhiều giải thuyết đã nêu ra để giải thích lý do tại sao không có giải Nobel toán học.
Đây cũng được xem là giả thuyết phổ biến, được nhiều người biết đến nhất. Nhiều người cho rằng vợ hoặc người yêu của Alfred Nobel đã phản bội ông và ngoại tình với một nhà toán học nổi tiếng thời đó tên là Gosta Mittag-Leffler.
Gosta Mittag-Leffler vốn là nhà toán học nổi tiếng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Ông đã sáng lập ra tạp chí toán học danh tiếng Acta Mathematica và đóng vai trò quan trọng trong toán học nhưng lại có mâu thuẫn lớn với Alfred Nobel. Giải thuyết này lại một lần nữa bị phủ nhận. Bởi năm 1865, Nobel chuyển đến Paris sống, cùng lúc đó Gosta Mittag-Leffler còn đang là sinh viên và Nobel thì ít khi quay trở lại Thụy Điển. Nên mối liên hệ của cả hai là gần như khó xảy ra.
Nhiều người lại cho rằng Alfred Nobel không quan tâm và không hứng thú với lĩnh vực toán học, ông cho rằng không cảm thấy có lợi ích khi trao giải cho các đóng góp trong lĩnh vực này. Dường như, ông có hứng thú nhất với lĩnh vực văn chương mà thôi.
Một giả thuyết khác nữa là vào thời điểm đó đã có một giải thưởng toán học danh tiếng khác được trao. Và Alfred Nobel không muốn cạnh tranh nên đã quyết định không thành lập giải thưởng Nobel toán học.
Đến tận ngày nay, lý do vì sao không có giải thưởng Nobel toán học vẫn còn là một bí ẩn.
Lễ trao giải Nobel (Nguồn: Internet)
Những giải thưởng toán học khác
Tuy không có giải Nobel toán học nhưng trên thế giới, vẫn có các giải thưởng toán học danh tiếng khác mang sức ảnh hưởng khá lớn.
Đầu tiên phải nhắc đến Huy chương Fields, được thành lập năm 1936 theo tên của nhà toán học người Canada – John Charles Fields. Giải thưởng này được trao 4 năm mỗi lần cho nhà toán học dưới 40 tuổi.
Ngoài ra, giải thưởng toán học Abel cũng ra đời và được đặt theo tên của nhà toán học nổi tiếng vào thế kỷ 19 – Niels Henrik Abel.
Năm 2010, giáo sư Ngô Bảo Châu của Việt Nam đã đoạt Huy chương Field với công trình “chứng minh bổ đề cơ bản” và được coi là một trong 10 khám phá của năm do tạp chí Time bình chọn.
Giáo sư Ngô Bảo Châu (Nguồn Internet)
Vì Không Có Giải Nobel Toán Học, Nên…
Nếu không có giải Nobel cho Toán thì làm sao dân Toán có giải Nobel? À thì dân Toán sẽ lấy giải Nobel của môn khác chứ sao!
Đó là điều Sir Roger Penrose vừa đạt được năm nay, khi ông được trao giải Nobel Vật Lý cho một công trình toán học công bố năm 1965.
Penrose hiện là giáo sư Toán hưu trí đại học Oxford, nhưng trong sự nghiệp kéo dài hơn 60 năm, ông dạy ở nhiều đại học ở hai nước Anh và Mỹ. Ngoài các trường Top 10 như Cambridge, Oxford, Princeton, ông còn dạy một thời gian đáng kể ở các đại học tại Texas: University of Texas, Texas A&M, và Rice.
Sinh năm 1931, ông tốt nghiệp cử nhân Toán đại học University College London năm 1952 và tiến sĩ Toán đại học St. John’s College thuộc Cambridge năm 1958.
Ông thành đạt rất sớm. Năm 1955, khi vẫn còn là sinh viên, ông phát minh ra một dạng nghịch đảo của ma trận (matrix). Trong đại số tuyến tính, một bảng số được gọi là matrix và người ta định nghĩa các loại tính cộng, tính trừ, và tính nhân trên các matrix này. Nhưng không có tính chia. Tính chia được định nghĩa là nhân cho matrix nghịch đảo, tương tự như nói là “9 chia 3” có nghĩa là “7 nhân cho 1/3” vậy.
Matrix nghịch đảo cũng tương tự như số nghịch đảo. Nếu 3 (1/3) = 1 thì trong matrix, (A) (nghịch đảo của A) = I, dạng matrix tương tự như số 1.
Nếu kéo ra thêm nữa, (3)(1/3)(3) lại bằng lại 3. Với matrix, (A) (nghịch đảo của A) (A) cũng bằng lại A.
Thế thì cậu sinh viên Roger Penrose mới 24 tuổi phát minh ra một loại gần như nghịch đảo, viết là A+. Dạng này có thể không thoả mãn được điều kiện (A)(A+) = I, nhưng thoả mãn được các điều kiện sau đó, kiểu như (A)(A+)(A) lại bằng lại A. Dạng gần như nghịch đảo này được mang tên là nghịch đảo Moore-Penrose.
Tất nhiên không có giải Nobel Toán học nên phát minh này không phải là lý do Penrose đoạt giải Nobel.
Lý do ông đoạt giải Nobel là vì ông dùng toán học, cụ thể là hình học và topology, để chứng minh rằng lỗ đen trong vũ trụ là có thật và là kết quả của thuyết tương đối rộng hay còn gọi là thuyết tương đối tổng quát (general relativity) của Einstein.
Trong toán ở trường học, các thầy cô thường dạy là cấm không được chia cho số 0. Tính chia 1/0 là vô định. Khi dạy điều này, tôi thường kèm theo tấm hình sau.
Trong toán, điểm chia cho 0 là một điểm singularity (điểm kỳ dị). Ở quanh đó, giá trị của tính chia lên tới vô cực.
Trong vật lý vũ trụ, điểm kỳ dị là nơi lỗ đen xảy ra, khi một ngôi sao chết đi và rút lại chỉ còn một điểm. Tất cả lực hấp dẫn của nguyên một ngôi sao rút về chỉ còn một điểm và lực hấp dẫn ở quanh đó trở nên lớn thành vô cực.
Lỗ đen ngày nay là một hiện tượng nhiều người biết vì rất rất nhiều truyện và phim khoa học giả tưởng dùng nó như một chi tiết mấu chốt.
Giới đọc truyện hay xem phim khoa học giả tưởng đều hiểu chung chung về lỗ đen. Họ biết rằng tại đó lực hấp dẫn lên cao tới vô cùng. Nếu còn ở xa xa thì không sao, còn có thể tránh được, nhưng một khi đã vượt qua một lằn ranh vô hình được gọi là “event horizon” (chân trời sự kiện) thì đừng có hòng mà thoát. Lực hấp dẫn sẽ hút cả phi thuyền vào lỗ đen và mọi người sẽ chết vì bị bóp nát trong trọng lực vô cùng. Lỗ đen được gọi là “đen” vì trọng lực lớn tới mức ánh sáng cũng không thoát ra được nên ở đó tối thui.
Tất cả những chi tiết này, ngày nay được chấp nhận chính là nhờ công trình toán học của Roger Penrose. Ủy ban Nobel tuyên bố trao cho ông 1/2 giải Nobel Vật lý do ông đã “khám phá ra rằng sự tạo thành của lỗ đen là một kết quả được thuyết tương đối rộng tiên đoán một cách vững chắc.”
Trước khi có bài nghiên cứu năm 1965 của Penrose, cơ sở toán học cho lỗ đen bị yếu kém ở chỗ phải giả sử rằng có sự đối xứng – vì đó là giới hạn để giải các phương trình của Einstein.
Hãy nghe chính ông Penrose kể lại trong cuộc phỏng vấn với Adam Smith, khoa học gia trưởng của cơ quan truyền thông Nobel Media.
“Có một bài nghiên cứu năm 1939 của Oppenheimer và Snyder với mô hình lý thuyết về sự co rút sụp đổ (collapse) của một đám mây bụi vũ trụ, và đại khái đó là chuyện ngày nay chúng ta gọi là sự co rút sụp đổ của lỗ đen. Nhưng vấn đề là trước hết họ có toàn là bụi, mà bụi thì theo định nghĩa không có áp suất, nên không có gì để ngăn chặn hết. Và thứ nhì là nó hoàn toàn đối xứng, nên tất cả các thứ đều rơi về trung tâm và vì không có gì để chặn nên cuối cùng mình có điểm kỳ dị ở chính giữa và đó là mô hình giống như lỗ đen.
Nhưng không phải ai cũng tin mô hình này, và cụ thể là vì nó đối xứng. Khi đó có hai người Nga, Lifshitz và Khalatnikov, họ viết bài nghiên cứu và họ nói đại khái là trong trường hợp tổng quát thì sẽ không có điểm kỳ dị [NB: tức là nếu đám mây không đối xứng thì sẽ không có lỗ đen]. Tôi đọc bài đó và tôi có cảm tưởng là cách của họ không thuyết phục lắm, cho nên tôi tự suy nghĩ thêm về điều này và tôi suy nghĩ về bài toán này theo hướng hình học, không phải là giải phương trình vì như vậy phức tạp quá, và cũng không đặt giả thiết về đố xứng vì đó là mấu chốt, không thể có cái đó được, nên tôi phải xây dựng lập luận.”
Và ông kể thêm về câu chuyện bằng cách nào ông có cảm hứng giải bài toán này.
“Lúc đó tôi đang dạy tại Birkbeck College, và một anh bạn tôi, Ivor Robinson, ảnh người Anh nhưng ảnh đang làm việc tại Dallas, Texas, và ảnh đang nói chuyện với tôi, tôi quên mất chuyện gì rồi, ảnh có cách nói chuyện hay lắm và ảnh đang nói chuyện với tôi và hai đứa chúng tôi tới ngã tư đường. Trong lúc băng qua đường thì ảnh ngưng nói vì phải để ý xe cộ. Qua bên kia đường rồi thì ảnh nói chuyện tiếp.
Sau khi chia tay thì tôi có cảm giác vui thích lạ thường và tôi không hiểu tại sao tôi lại có cảm giác đó. Nên tôi suy nghĩ lại hết tất cả những chuyện đã xảy ra trong ngày, buổi sáng ăn sáng món gì, tất cả các thứ, cho tới đoạn tôi băng qua đường, thì tôi mới nhớ ra là tôi có một ý tưởng, và ý tưởng đó là mấu chốt, rằng sự co rút sụp đổ có thể bị qua khỏi một điểm không trở lại được, mà không cần cái gì đối xứng cả. Tôi gọi đó là một bề mặt đã bị bẫy. Đó là điểm mấu chốt, và tôi chạy về phòng làm việc và phác thảo chứng minh định lý co rút sụp đổ. Bài nghiên cứu tôi viết không lâu sau đó, được đăng trên Physical Review Letters và được đăng năm 1965 hình như vậy.”
Bài nghiên cứu này là bài Gravitational Collapse and Space-Time Singularities đăng trên Phýical Review LEtters, 14(3):57-59, tháng 1 năm 1965. Năm 1969, ông tiếp tục với một giả thuyết mới trong đó ông đưa ra giả thuyết về đường chân trời sự kiện. Không có Penrose thì khái niệm lỗ đen chưa chắc đã được chấp nhận, và đã không có khái niệm đường chân trời sự kiện.
Nhưng tại sao phải hơn nửa thế kỷ sau ông mới được giải Nobel? Vì phải chờ cho tới khi có hai nhà vật lý vũ trụ, Andrea Ghez ở UCLA năm 1995 và Reinhardt Genzel thuộc Max Planck Institute for Extraterrestrial Physics ở Đức năm 1998, khám phá ra lỗ đen ở trung tâm Dải Ngân Hà, phù hợp với lý thuyết của Penrose. Họ cùng chia giải Nobel với ông. Xưa nay, giải Nobel Vật lý không trao cho các công trình lý thuyết cho tới khi được chứng minh bằng thực nghiệm. Xin chia buồn với toàn bộ hàng chục, hàng trăm triệu các nhà toán học.
Nhưng câu chuyện của Penrose không chỉ ở giải Nobel Vật Lý. Tôi sẽ kể tiếp chuyện ông Penrose và giải Nobel Hóa học trong bài tới.
Tại Sao Không Có Giải Nobel Toán Học?!
Nguồn bài viết: chúng tôi
Từ 1901 đến nay, cứ đến mùa thu là các giải thưởng Nobel được công bố. Đúng theo chúc thư của nhà phát minh Thụy Điển Alfred Nobel (1833-1896) thì có tất cả 5 giải thưởng cho các thành tựu trong vật lý, hóa học, y khoa hay sinh lý học, văn chương và hòa bình thế giới. Từ 1969 trở đi, Sveriges Riksban (Ngân hàng Đế chế Thụy Điển) còn góp quỹ thêm cho một giải thưởng Nobel về kinh tế học nữa. Nhưng từ trước đến nay không hề có một giải thưởng Nobel cho toán học!
Tại sao không có giải Nobel toán học? Hy Lạp cổ đại đã bảo “Thượng đế làm toán” sao? Carl Friedrich Gauß cũng nói “Toán học là nữ hoàng của các môn khoa học”. Thôi thì cứ cho là Gauß có hơi …thiên vị đi, nhưng chắc chắn không ai thực sự quan niệm là toán học không phải là một ngành khoa học quan trọng đâu. Có thể là không ai hết …ngoài Alfred Nobel ra!
Carl Friedrich Gauß (1777-1855)
Ngày nay nhiều người nghiên cứu tiểu sử Nobel cho đây chính là nguyên nhân tại sao ông ta không đoái hoài tới toán học trong chúc thư của mình. Ngay cả hội đồng giải thưởng Nobel từ lâu cũng coi đó là lý do chính thức giải thích chuyện này.
Xét về thân thế Alfred Nobel thì cũng có thể dễ dàng chấp nhận chuyện này: Nobel tuy là một nhà sáng chế tài ba, nhất là về hóa học (ông có hơn 350 bằng sáng chế) nhưng chỉ đi học đến năm 16 tuổi và những năm cuối chỉ học tư ở nhà, chủ yếu là với nhà hóa học Nga Nikolai Zinin, người mà chắc đã dẫn ông vào ngành này.
Nikolai Nicolaievich Zinin (1812-1880).
Nobel không theo học đại học ở đâu cả mà chỉ làm việc và nghiên cứu trong cơ xưởng và phòng thí nghiệm. Thời đó (nửa sau thế kỷ 19) người ta khám phá về hóa học rất nhiều, nhưng phần lớn đều dựa vào thực nghiệm mà chưa cần gì đến cơ sở khoa học.
Xem lại các sáng chế của Nobel, người ta thấy ông rất am tường các loại nguyên liệu, hóa chất và nhất là có trực giác nhạy bén trong lúc nghiên cứu, nhưng về toán học thì chỉ áp dụng nhiều lắm là phép tam suất thôi. Có thể mà vì vậy ông đã không cảm thấy cần thiết có một giải thưởng cho toán học chăng?
Các giai thoại ly kỳ
Mittag-Leffler
Đầu tiên phải kể giai thoại mà nhà toán học Thụy Điển Torsten Carleman (1892-1949) đã nhắc đến khi phát biểu tưởng niệm Mittag-Leffler trong đám tang ông này: lúc sinh thời Alfred Nobel có bàn chuyện các giải thưởng với một nhà toán học quen biết đại khái như sau:
– “Nếu tôi lập một giải thưởng cho toán học thì liệu Mittag-Leffler có được chọn lãnh giải không?”
– “Tôi nghĩ rằng có thể lắm.”
– “Vậy thì thôi, tôi sẽ không lập giải này đâu!”
Chuyện này tuy có ghi lại trong tiểu sử Carleman nhưng chắc chỉ do Carleman đặt ra để tôn vinh đồng nghiệp mình thôi. Vì tuy Mittag-Leffler có là một trong những nhà toán học lớn của Thụy Điển nhưng đương thời không sao sánh được Henri Poincaré (1854-1912)
Henri Poincaré (1854-1912)
hay David Hilbert chẳng hạn. Mà chính Mittag-Leffler lúc còn sống cũng đã vận động tích cực cho Poincaré được Nobel vật lý (nhưng không thành công, ông ta còn vận động cho Marie Curie và Albert Einstein nữa, kết quả ra sao chúng ta đã biết).
Và trong một giai thoại khác Mittag-Leffler cũng được nhắc đến là người đã quyến rũ người vợ trẻ của Alfred Nobel cho nên ông này vì hận mà cố tình loại bỏ toán học trong các giải thưởng của mình lập ra. Thật ra thì Alfred Nobel suốt đời sống độc thân. Theo tiểu sử của Nobel (Ragnar Sohlman, The Legacy of Alfred Nobel, London, 1983 chẳng hạn) thì quả là ông có một người bạn gái người Áo trẻ (nhỏ hơn ông đến 30 tuổi!) là Sophie Hess ở Wien.
Cô này tuy được Nobel chu cấp (và sau này được để lại một phần gia tài) nhưng người ta không nghĩ cô là người yêu của Nobel, và lại càng không có gì chứng minh là Mittag-Leffler (hay một nhà toán học nào cùng thời) là tình địch cả.
Đó là cô Sofja Kowalewska, nữ toán gia người Nga mà sau này nhờ Mittag-Leffler vận động đã trở thành nữ giáo sư toán đầu tiên ở Trung và Bắc Âu.
Theo đó thì Nobel rất ái mộ Kowalewska nhưng – cũng vì Mittag-Leffler! – mà không lọt vào mắt xanh của cô. Từ đó mà ông đâm hận tất cả các nhà toán học và dĩ nhiên không khi nào chịu lập một giải thưởng cho khoa này.
Theo nghiên cứu mới nhất về Mittag-Leffler (của Arild Stubhaug, Springer sắp xuất bản) thì quả thật cả ba có quen biết nhau, nhưng dựa theo thư từ giữa Mittag-Leffler và Nobel thì Nobel đã không sốt sắng gì mấy trong việc giúp đỡ tài chính cho Kowalewskaja, sau này còn từ chối hẳn nữa.
Trong khi đó Lars H. Hormander (một nhà toán học lớn của Thụy Điển, được huy chương Fields năm 1962 cùng John Milnor) thì cho rằng Mittag-Leffler và Nobel không thật sự quen biết nhau gì hết (Mathematical Intelligercer 7(3) 1985).
Giải thưởng Nobel và toán học
Cho dù vì sao đi nữa thì không có giải Nobel toán học vẫn là một thiệt thòi lớn cho toán học. Một giải thưởng như vậy không chỉ đem lại số tiền thưởng to tát có thể giúp đỡ nhiều cho các nhà toán học tài năng rảnh rang nghiên cứu mà còn đem lại cơ hội phổ biến toán học trong quần chúng nữa.
Thực vậy, nhờ giải thưởng này mà báo chí, truyền thanh, truyền hình ít nhất cũng gây cho mọi người có dịp ít nhiều quan tâm đến khoa học, và nhất là toán học xưa nay vẫn không được ưa chuộng cho lắm nữa. Bạn nào có đọc qua quyển sách nhỏ của G.H. Hardy (A Mathematician’s Apology – Lời xin lỗi của một nhà toán học, 1940) thì sẽ cảm thấy sự cay đắng của những người sống và làm việc với toán học.
Những cái đẹp, những cái hay – đó là chưa nói đến những đóng góp cho các ngành khoa học hay kỹ thuật khác – người ngoài ít ai biết đến hay hiểu được, cho nên hầu như chẳng ai màng tới.
Ngược lại, tự bảo mình là dốt toán lại có thể gây thiện cảm với người khác nữa!
Nhưng không có giải Nobel cho toán học hoàn toàn không có nghĩa là các nhà toán học không được giải Nobel!
Năm 1998 giải Nobel hóa học trao cho John Pople (cùng với Walter Kohn) vốn là một nhà toán học nhưng nghiên cứu về hóa học lượng tử (bằng phương pháp toán học).
John Pople cùng với Walter Kohn
Trước đó 1994 John Nash
(mấy năm trước được Hollywood quay phim “A beautiful mind” với Russel Crowe đóng vai ông) cũng nhận giải Nobel kinh tế học do những thành tựu về lý thuyết trò chơi.
and Robert J. Aumann
một nhà toán học gốc Do thái cũng nhận giải Nobel kinh tế học (cùng Thomas C. Schelling) về công trình nghiên cứu về sự xung đột và hợp tác (cũng nằm trong lý thuyết toán học về trò chơi).
.
Nhưng mà em nghĩ cái lí do đấy, cứ như chuyện hài ấy.
, lí do nghe có vẻ đúng nhưng chẳng thuyết phục tý nào cả.
# 1【Lý Giải】 Vì Sao Có Tim Thai Rồi Lại Mất?
16/01/2019 13.670 lượt xem
Tim thai được coi là biểu hiện rõ ràng nhất của một mầm sống đang lớn lên trong cơ thể mẹ. Nghe được nhịp tim của bé chắc chắn là niềm hạnh phúc vô bờ đối với chị em. Nhưng có những trường hợp có tim thai rồi lại mất, rồi tim thai đập trở lại khiến các mẹ vô cùng hoang mang.
Tim thai là gì?
Tim thai là một bộ phận được hình thành từ rất sớm, ngay từ ngày thứ 16 của thai kỳ, trong bào thai đã có 2 mạch đập để thực hiện chức năng bơm máu sơ khai nhất. Sau đó, mạch máu này sẽ xoắn lại và phân chia dần, hình thành nên trái tim của em bé vào những tuần tiếp theo.
Đến tuần thứ 6 của thai kỳ, tim thai đã đập khoảng 80 nhịp/phút, đã có đủ 4 ngăn và tiếp tục hoàn thiện. Khoảng 2 tuần tiếp theo, tim thai sẽ tăng lên đập 150 nhịp/phút, cao gấp đôi nhịp tim của mẹ.
Và đến tuần thứ 9-10, tim thai sẽ đập khoảng 170 nhịp/phút. Mẹ hoàn toàn có thể nghe được tim thai với sự hỗ trợ của bác sĩ. Đến tuần thứ 20 thì mẹ có thể nghe được tim thai nhờ những dụng cụ như ống nghe y tế, ứng dụng nghe tim thai. Sau khi đạt đỉnh 170 nhịp/phút, nhịp tim thai sẽ giảm dần cho tới lúc bé chào đời.
Ở giai đoạn đầu thai kỳ, tim thai chính là một yếu tố sống còn, giúp bác sĩ xác định tình trạng sức khỏe, khả năng sống của thai nhi. Vì vậy, việc kiểm tra và xác định tim thai lúc này là vô cùng quan trọng.
Có tim thai rồi lại mất
Việc có tim thai rồi lại mất luôn khiến các mẹ bầu hoảng sợ bởi như đã nói ở trên, tim thai là dấu hiệu sống, phát triển rõ rệt nhất của bé yêu. Khi được bác sĩ thông báo mất tim thai, mẹ bầu cần hết sức bình tĩnh. Sẽ có 2 trường hợp xảy ra:
Thứ nhất là máy móc trục trặc, thai nằm ở vị trí khó siêu âm nên kết quả không chính xác. Mẹ bầu cần kiểm tra ở nhiều nơi khác nhau để đối chiếu. Nếu kết quả kiểm tra lại vẫn không thấy tim thai, mẹ nên kiên nhẫn chờ đợi thêm khoảng 1 tuần nữa rồi đi kiểm tra lại xem sao. Sau đó, mẹ hãy làm theo chỉ dẫn của bác sĩ.
Trường hợp nữa khi có tim thai rồi lại mất đó là thai nhi đã ngừng phát triển, bị sảy hoặc chết lưu. Đây là điều vô cùng đáng tiếc nhưng mẹ cần bình tĩnh đón nhận, làm theo chỉ định đình chỉ thai nghén của bác sĩ để đảm bảo an toàn cho mẹ.
Và dù mẹ có tim thai rồi mất trường hợp nào thì điều quan trọng nhất vẫn là giữ bình tĩnh, kiểm tra lại nhiều lần để tránh những nhầm lẫn đáng tiếc. Có rất nhiều trường hợp mẹ bầu được bác sĩ thông báo mất tim thai nhưng sau khi đi kiểm tra ở nơi khác thì lại bình thường hoặc sau vài ngày quay lại khám thì lại thấy tim thai. sinh mổ 8 có thai lại
Không có tim thai và hướng giải quyết
Thông thường đến tuần thứ 6 của thai kỳ, muộn hơn là tuần thứ 8-10 là bác sĩ đã có thể nghe được tim thai và đến tuần thứ 20 thì mẹ tự nghe tim thai bằng các dụng cụ đơn giản được. Nhưng nếu vượt quá ngưỡng thời gian trên mà mẹ vẫn chưa có tim thai thì rất có thể mẹ đã bị sảy thai.
Các dấu hiệu đi kem với không có tim thai như ra máu đỏ tươi, đau bụng, chuột rút, các dấu hiệu ốm nghén biến mất, nồng độ hCG giảm thì nguy cơ sảy thai là rất cao.
Ngoài ra, có trường hợp mẹ bị thai lưu thì còn khó phát hiện hơn bởi sẽ không có những triệu chứng kể trên. Phải sau khoảng một thời gian, mẹ bị ra máu nhiều và đi khám mới có thể biết được.
Cập nhật thông tin chi tiết về Bạn Có Biết Lý Do Vì Sao Lại Không Có Giải Nobel Toán Học? trên website Thanhlongicc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!