Tại Sao Không Có Giải Nobel Về Toán Học / Top 15 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Thanhlongicc.edu.vn

Tại Sao Không Có Giải Nobel Toán Học

Giải nobel là giải thưởng danh giá nhất cho các nhà khoa học nhằm tôn vinh những thành tựu cũng như những cống hiến của các nhà khoa học cho sự nghiệp phát triển khoa học và hoà bình của thế giới. Tuy nhiên lại không có giải nobel dành cho toán học. Đây là một câu hỏi lớn tại sao không có giải nobel toán học dành cho các nhà toán học.

Sự ra đời của các giải Nobel

Alfred Bernhard Nobel (21/10/1833 – 10/12/1896) là một nhà hóa học, một nhà kỹ nghệ, người có hơn 350 phát minh trong đó nổi bật nhất là thuốc nổ (dynamite) và một triệu phú người Thụy Điển. Nguyên tố hóa học Nobelium được đặt theo tên của ông.

Trước khi mất đi, Nobel đã để lại 94% tài sản của mình (khoảng 235 triệu USD/250 triệu USD – con số đã được điều chỉnh theo lạm phát) để làm giải thưởng về các lĩnh vực : Vật lý, Hóa học, Y học, Văn học và Hòa bình. Được quản lý bởi quỹ Nobel, cho tới nay tài sản để lại của Nobel đã được sinh sôi nảy nở lên tới hơn 500 triệu USD. Mỗi người khi được trao giải Nobel sẽ được nhận một huy chương bằng vàng thật, bằng chứng nhận và số tiền trên 1 triệu USD. Nhận giải có thể là một cá nhân hoặc nhóm không quá 3 người.

Lý do tại sao không có giải nobel toán học

Nhiều người cho là do vợ/vợ sắp cưới/người yêu của ông đã bỏ ông đi theo một nhà toán học danh tiếng, do vậy Nobel cảm thấy bị xúc phạm và không trao giải thưởng cho môn Toán (trong khi lại trao giải cho Lý, Hóa). Thực sự thì không có bất cứ bằng chứng nào chứng minh được điều này

Tìm hiểu thêm kích thước biển báo giao thông đường bộ- đi phượt vũng tàu cần bao nhiêu tiền- dịch các lá bài yugioh- xã tiếng anh là gì

Lý do thực sự tại sao không có giải nobel toán học

Lý do mà Nobel không trao giải cho môn Toán có lẽ là vì ông chẳng quan tâm tới môn này, hay rõ hơn là vì ông chỉ trao giải cho những bộ môn/lĩnh vực mà ông quan tâm. Vật lý và Hóa học là hai bộ môn Nobel nghiên cứu rất nhiều, Văn học thì là sở thích của ông.

Y học cũng là một ngành mà Nobel nhìn nhận sẽ giúp ích được cho thế giới sau này rất nhiều. Giải thưởng Nobel về Hòa bình là do bà Kinsky, một trong 3 người phụ nữ của Nobel đề xuất với ông bởi lúc đó Nobel được coi là người giúp tạo ra chiến tranh ở khắp nơi (do bằng sáng chế về thuốc nổ của ông) và giải thưởng về Hòa bình sẽ làm thay đổi nhận thức của mọi người về ông.

Ta thấy rằng khi định ra các giải thưởng Nobel thì ông đã dựa vào ý kiến chủ quan của mình và vì ông không hứng thú với toán học và cho rằng toán học chỉ bổ trợ cho các ngành khoa học khác. Vì thế nên ông đã không định ra giải thưởng này khi để lại di chúc.

Giải “nobel” toán học của thế giới

Vì toán học là một ngành khoa học tiên phong và rất quan trọng cho nên người ta đã có một giải thưởng danh giá trao cho các cống hiến khoa học . Một giải thưởng danh giá ngang hàng với giải nobel. Đó là giải thưởng Fields danh giá, còn gọi là giải Nobel toán học của thế giới.

Vậy là bạn đã biết tại sao không có giải nobel toán học rồi. Chúng ta đã biết lý do thực sự đằng sau việc không có giải nobel toán học, rất may là cũng đã có một giải thưởng danh giá khác.

Vì Sao Không Có Giải Nobel Toán Học?

Alfred Bernhard Nobel (21/10/1833 – 10/12/1896) là một nhà hóa học, một nhà kỹ nghệ, người có hơn 350 phát minh trong đó nổi bật nhất là t…

Alfred Bernhard Nobel (21/10/1833 – 10/12/1896) là một nhà hóa học, một nhà kỹ nghệ, người có hơn 350 phát minh trong đó nổi bật nhất là thuốc nổ (dynamite) và một triệu phú người Thụy Điển. Nguyên tố hóa học Nobelium được đặt theo tên của ông.

Giải thưởng Nobel là giải thưởng vô cùng danh giá. Trước khi mất đi, Nobel đã để lại 94% tài sản của mình (khoảng 235 triệu USD/250 triệu USD – con số đã được điều chỉnh theo lạm phát) để làm giải thưởng về các lĩnh vực: Vật lý, Hóa học, Y học, Văn học và Hòa bình. Được quản lý bởi quỹ Nobel, cho tới nay tài sản để lại của Nobel đã được sinh sôi nảy nở lên tới hơn 500 triệu USD. Mỗi người khi được trao giải Nobel sẽ được nhận một huy chương bằng vàng thật, bằng chứng nhận và số tiền trên 1 triệu USD. Nhận giải có thể là một cá nhân hoặc nhóm không quá 3 người. Tuy nhiên, Nobel không trao giải cho lĩnh vực Toán học.

Lý do vì sao không có Nobel Toán học

Giải thưởng Toán nào tương xứng với giải Nobel?

Trên thực tế, rất nhiều người nhìn nhận giải thưởng Fields (mà giáo sư Ngô Bảo Châu mới vinh dự nhận được gần đây) là giải thưởng thay thế cho giải Nobel Toán học. Tuy nhiên, quan niệm này không thật chính xác bởi giải Fields chỉ được trao 4 năm một lần (trong khi giải Nobel trao 1 năm một lần), số tiền thưởng của giải Fields chỉ là 15.000 USD (so với giải Nobel là 1 triệu USD) và giải Fields thường không trao cho một thành tựu nghiên cứu xuất sắc đơn lẻ mà trao cho cả quá trình nghiên cứu xuất sắc. Đương nhiên, giải Fields vẫn là một giải thưởng cực kỳ danh giá về Toán học nhưng nói một cách chính xác thì Giải Abel do vua Nauy chủ trì với giải thưởng lên tới gần 1 triệu USD (tùy tỉ giá giữa đồng krone Nauy với USD) và người được giải được chọn bởi 5 nhà toán học có uy tín trên thế giới mới là giải thưởng tương đương với giải Nobel.

Vì Không Có Giải Nobel Toán Học, Nên…

Nếu không có giải Nobel cho Toán thì làm sao dân Toán có giải Nobel? À thì dân Toán sẽ lấy giải Nobel của môn khác chứ sao!

Đó là điều Sir Roger Penrose vừa đạt được năm nay, khi ông được trao giải Nobel Vật Lý cho một công trình toán học công bố năm 1965.

Penrose hiện là giáo sư Toán hưu trí đại học Oxford, nhưng trong sự nghiệp kéo dài hơn 60 năm, ông dạy ở nhiều đại học ở hai nước Anh và Mỹ. Ngoài các trường Top 10 như Cambridge, Oxford, Princeton, ông còn dạy một thời gian đáng kể ở các đại học tại Texas: University of Texas, Texas A&M, và Rice.

Sinh năm 1931, ông tốt nghiệp cử nhân Toán đại học University College London năm 1952 và tiến sĩ Toán đại học St. John’s College thuộc Cambridge năm 1958.

Ông thành đạt rất sớm. Năm 1955, khi vẫn còn là sinh viên, ông phát minh ra một dạng nghịch đảo của ma trận (matrix). Trong đại số tuyến tính, một bảng số được gọi là matrix và người ta định nghĩa các loại tính cộng, tính trừ, và tính nhân trên các matrix này. Nhưng không có tính chia. Tính chia được định nghĩa là nhân cho matrix nghịch đảo, tương tự như nói là “9 chia 3” có nghĩa là “7 nhân cho 1/3” vậy.

Matrix nghịch đảo cũng tương tự như số nghịch đảo. Nếu 3 (1/3) = 1 thì trong matrix, (A) (nghịch đảo của A) = I, dạng matrix tương tự như số 1.

Nếu kéo ra thêm nữa, (3)(1/3)(3) lại bằng lại 3. Với matrix, (A) (nghịch đảo của A) (A) cũng bằng lại A.

Thế thì cậu sinh viên Roger Penrose mới 24 tuổi phát minh ra một loại gần như nghịch đảo, viết là A+. Dạng này có thể không thoả mãn được điều kiện (A)(A+) = I, nhưng thoả mãn được các điều kiện sau đó, kiểu như (A)(A+)(A) lại bằng lại A. Dạng gần như nghịch đảo này được mang tên là nghịch đảo Moore-Penrose.

Tất nhiên không có giải Nobel Toán học nên phát minh này không phải là lý do Penrose đoạt giải Nobel.

Lý do ông đoạt giải Nobel là vì ông dùng toán học, cụ thể là hình học và topology, để chứng minh rằng lỗ đen trong vũ trụ là có thật và là kết quả của thuyết tương đối rộng hay còn gọi là thuyết tương đối tổng quát (general relativity) của Einstein.

Trong toán ở trường học, các thầy cô thường dạy là cấm không được chia cho số 0. Tính chia 1/0 là vô định. Khi dạy điều này, tôi thường kèm theo tấm hình sau.

Trong toán, điểm chia cho 0 là một điểm singularity (điểm kỳ dị). Ở quanh đó, giá trị của tính chia lên tới vô cực.

Trong vật lý vũ trụ, điểm kỳ dị là nơi lỗ đen xảy ra, khi một ngôi sao chết đi và rút lại chỉ còn một điểm. Tất cả lực hấp dẫn của nguyên một ngôi sao rút về chỉ còn một điểm và lực hấp dẫn ở quanh đó trở nên lớn thành vô cực.

Lỗ đen ngày nay là một hiện tượng nhiều người biết vì rất rất nhiều truyện và phim khoa học giả tưởng dùng nó như một chi tiết mấu chốt.

Giới đọc truyện hay xem phim khoa học giả tưởng đều hiểu chung chung về lỗ đen. Họ biết rằng tại đó lực hấp dẫn lên cao tới vô cùng. Nếu còn ở xa xa thì không sao, còn có thể tránh được, nhưng một khi đã vượt qua một lằn ranh vô hình được gọi là “event horizon” (chân trời sự kiện) thì đừng có hòng mà thoát. Lực hấp dẫn sẽ hút cả phi thuyền vào lỗ đen và mọi người sẽ chết vì bị bóp nát trong trọng lực vô cùng. Lỗ đen được gọi là “đen” vì trọng lực lớn tới mức ánh sáng cũng không thoát ra được nên ở đó tối thui.

Tất cả những chi tiết này, ngày nay được chấp nhận chính là nhờ công trình toán học của Roger Penrose. Ủy ban Nobel tuyên bố trao cho ông 1/2 giải Nobel Vật lý do ông đã “khám phá ra rằng sự tạo thành của lỗ đen là một kết quả được thuyết tương đối rộng tiên đoán một cách vững chắc.”

Trước khi có bài nghiên cứu năm 1965 của Penrose, cơ sở toán học cho lỗ đen bị yếu kém ở chỗ phải giả sử rằng có sự đối xứng – vì đó là giới hạn để giải các phương trình của Einstein.

Hãy nghe chính ông Penrose kể lại trong cuộc phỏng vấn với Adam Smith, khoa học gia trưởng của cơ quan truyền thông Nobel Media.

“Có một bài nghiên cứu năm 1939 của Oppenheimer và Snyder với mô hình lý thuyết về sự co rút sụp đổ (collapse) của một đám mây bụi vũ trụ, và đại khái đó là chuyện ngày nay chúng ta gọi là sự co rút sụp đổ của lỗ đen. Nhưng vấn đề là trước hết họ có toàn là bụi, mà bụi thì theo định nghĩa không có áp suất, nên không có gì để ngăn chặn hết. Và thứ nhì là nó hoàn toàn đối xứng, nên tất cả các thứ đều rơi về trung tâm và vì không có gì để chặn nên cuối cùng mình có điểm kỳ dị ở chính giữa và đó là mô hình giống như lỗ đen.

Nhưng không phải ai cũng tin mô hình này, và cụ thể là vì nó đối xứng. Khi đó có hai người Nga, Lifshitz và Khalatnikov, họ viết bài nghiên cứu và họ nói đại khái là trong trường hợp tổng quát thì sẽ không có điểm kỳ dị [NB: tức là nếu đám mây không đối xứng thì sẽ không có lỗ đen]. Tôi đọc bài đó và tôi có cảm tưởng là cách của họ không thuyết phục lắm, cho nên tôi tự suy nghĩ thêm về điều này và tôi suy nghĩ về bài toán này theo hướng hình học, không phải là giải phương trình vì như vậy phức tạp quá, và cũng không đặt giả thiết về đố xứng vì đó là mấu chốt, không thể có cái đó được, nên tôi phải xây dựng lập luận.”

Và ông kể thêm về câu chuyện bằng cách nào ông có cảm hứng giải bài toán này.

“Lúc đó tôi đang dạy tại Birkbeck College, và một anh bạn tôi, Ivor Robinson, ảnh người Anh nhưng ảnh đang làm việc tại Dallas, Texas, và ảnh đang nói chuyện với tôi, tôi quên mất chuyện gì rồi, ảnh có cách nói chuyện hay lắm và ảnh đang nói chuyện với tôi và hai đứa chúng tôi tới ngã tư đường. Trong lúc băng qua đường thì ảnh ngưng nói vì phải để ý xe cộ. Qua bên kia đường rồi thì ảnh nói chuyện tiếp.

Sau khi chia tay thì tôi có cảm giác vui thích lạ thường và tôi không hiểu tại sao tôi lại có cảm giác đó. Nên tôi suy nghĩ lại hết tất cả những chuyện đã xảy ra trong ngày, buổi sáng ăn sáng món gì, tất cả các thứ, cho tới đoạn tôi băng qua đường, thì tôi mới nhớ ra là tôi có một ý tưởng, và ý tưởng đó là mấu chốt, rằng sự co rút sụp đổ có thể bị qua khỏi một điểm không trở lại được, mà không cần cái gì đối xứng cả. Tôi gọi đó là một bề mặt đã bị bẫy. Đó là điểm mấu chốt, và tôi chạy về phòng làm việc và phác thảo chứng minh định lý co rút sụp đổ. Bài nghiên cứu tôi viết không lâu sau đó, được đăng trên Physical Review Letters và được đăng năm 1965 hình như vậy.”

Bài nghiên cứu này là bài Gravitational Collapse and Space-Time Singularities đăng trên Phýical Review LEtters, 14(3):57-59, tháng 1 năm 1965. Năm 1969, ông tiếp tục với một giả thuyết mới trong đó ông đưa ra giả thuyết về đường chân trời sự kiện. Không có Penrose thì khái niệm lỗ đen chưa chắc đã được chấp nhận, và đã không có khái niệm đường chân trời sự kiện.

Nhưng tại sao phải hơn nửa thế kỷ sau ông mới được giải Nobel? Vì phải chờ cho tới khi có hai nhà vật lý vũ trụ, Andrea Ghez ở UCLA năm 1995 và Reinhardt Genzel thuộc Max Planck Institute for Extraterrestrial Physics ở Đức năm 1998, khám phá ra lỗ đen ở trung tâm Dải Ngân Hà, phù hợp với lý thuyết của Penrose. Họ cùng chia giải Nobel với ông. Xưa nay, giải Nobel Vật lý không trao cho các công trình lý thuyết cho tới khi được chứng minh bằng thực nghiệm. Xin chia buồn với toàn bộ hàng chục, hàng trăm triệu các nhà toán học.

Nhưng câu chuyện của Penrose không chỉ ở giải Nobel Vật Lý. Tôi sẽ kể tiếp chuyện ông Penrose và giải Nobel Hóa học trong bài tới.

Vì Sao Nên Học Thạc Sĩ Ngành Kế Toán? Học Thạc Sĩ Ngành Kế Toán Ở Đâu?

Với cơ hội việc làm có mức lương ổn định, nhu cầu nhan lực thiếu, ngành kế toán đang là một trong các ngành học có sức hút rất lớn đối với các bạn đã tốt nghiệm đại học. Nếu như bạn là người đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kế toán? Nếu như bạn muốn thăng tiến hơn trong sự nghiệp của mình? Giải pháp chính là bằng thạc sĩ kế toán, nó sẽ gúp bạn rất nhiều trong sự nghiệp của mình. Vậy học thạc sĩ ngành kế toán ở đâu thì chất lượng?

Quan niệm sai lầm về việc học thạc sĩ ngành kế toán

Hiện nay, có nhiều quan niệm về việc theo học thạc sĩ chuyên ngành kế toán. Rất nhiều người nghĩ rằng việc học thạc sĩ ngành này chỉ để nâng cao bằng cấp, để tăng hệ số lượng. Thế nhưng, thực tế không phải vậy, khi học lên cao học, kiến thức của bạn sẽ được củng cố và nâng cao. Bên cạnh đó nó cũng giúp cho bạn tạo dựng thêm các mối quan hệ mới.

Nếu như để trả lời câu hỏi: có nên theo học thạc sĩ ngành kế toán không? Thì câu trả lời đương nhiên là có.

Vì sao nên học thạc sĩ thạc sĩ ngành kế toán?

Giúp bạn thăng tiến trong công việc

Học thạc sĩ là việc đầu tư lâu dài có lợi nhuận. Khi theo học thạc sĩ, bạn sẽ có cơ hội tìm hiểu về các tình huống, kiến thức cụ thể và những cách xử lý cần thiết sẽ như thế nào? Tất cả những điều này sẽ giúp bạn trong quá trình làm việc thực tế của bạn sau này. Hơn nữa, nếu như có bằng thạc sĩ, bạn sẽ được cân nhắc thăng chức dễ dàng hơn vì tấm bằng đó đã thể hiện được phần nào sự cố gắng của bạn.

Bạn được làm việc với ngành mà bạn thích

Sinh viên ra trường thường sẽ lo lắng không tìm được công việc đúng ngành mình học. Đây là tình trạng chung của các bạn sinh viên. Thế nhưng, nhiều người ra trường vẫn được trải thảm đỏ. Bạn có bằng thạc sĩ ngành kế toán sẽ đồng nghĩa với việc năng lực của bạn được công nhận. Khi đó, bạn sẽ được lựa chọn công việc mà bạn mong muốn.

Học thạc sĩ ngành kế toán ở đâu uy tín, chất lượng?

Học thạc sĩ ngành kế toán tại Trường Đại học tài chính – ngân hàng Hà Nội, các bạn sẽ được bổ sung, nâng cao các kiến thức đã có. Qua đây, sinh viên sẽ học hỏi được các kinh nghiệm xử lý các tình huống thực tế. Qua đây, các bạn sẽ có thêm dược các kinh nghiệm phân tích, kiểm tra các tình huống phát sinh để kịp thời đưa ra các phương pháp giải quyết hợp lý.

Nếu như cần tư vấn, hỗ trợ thì các bạn có thể liên hệ trực tiếp với chúng tôi để được giải đáp cụ thể. Chúng tôi luôn mong muốn các bạn có hướng đi đúng đắn cho mình.