Ý Nghĩa Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập / Top 4 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Thanhlongicc.edu.vn

“Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập, Tự Do”

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc (Ảnh tư liệu)

Chủ tịch Hồ Chí Minh và chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”

Trong lịch sử nhân loại, việc đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giành độc lập không phải là đặc điểm riêng có của một dân tộc nào, song thật hiếm có một dân tộc như dân tộc Việt Nam, phải thường xuyên đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù mạnh hơn gấp bội để giành lại quyền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

“Là biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm thay đổi vận mệnh dân tộc Việt Nam, từ thân phận nô lệ trở thành dân tộc tự do, độc lập. Người đã nêu lên một chân lý nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(1).

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” – Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 17-7-1966, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đang ở giai đoạn quyết liệt, là sự kế thừa, nối tiếp tinh thần và ý chí quyết giành “độc lập tự do” cho dân tộc đã từng được khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập (năm 1945) và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (tháng 12-1946). “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” – lời kêu gọi thiêng liêng, bất hủ của Bác là khát vọng cháy bỏng của dân tộc Việt Nam, giá trị to lớn trong học thuyết Hồ Chí Minh và cũng chính là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp vĩ đại đấu tranh vì độc lập, tự do, vì sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Đồng thời, là nguồn cổ vũ, động viên to lớn đối với nhân loại tiến bộ, đặc biệt đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh vì cuộc sống và hạnh phúc của mình.

Với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, dân tộc ta đã “đánh cho Mỹ cút”; trang sử đánh giặc ngoại xâm của Việt Nam có thêm: người con gái biệt động Võ Thị Thắng trước đòn khảo tra dã man của quân thù vẫn nở nụ cười chiến thắng; Nguyễn Văn Trỗi trước giờ phút bị quân thù xử bắn, hai tay bị trói chặt mà đôi mắt vẫn sáng ngời niềm tin chiến thắng đã nhìn thẳng vào mặt quân thù hô vang ba lần: “Hồ Chí Minh muôn năm!”; Nguyễn Viết Xuân nhằm thẳng quân thù mà bắn; 10 cô gái Đồng Lộc ở tuổi thanh xuân đã hy sinh cho sự nghiệp độc lập, tự do của dân tộc…

Thừa thắng, quân và dân ta tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong 55 ngày đêm tiến công, ta đã “đánh cho ngụy nhào”. Từ đây đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện trọn vẹn mong muốn của Bác Hồ và làm sáng ngời hiện thực của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” trong sự nghiệp bảo vệ đất nước.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, chúng ta đã vào cuộc trường chinh xây dựng “đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” với công cuộc đổi mới theo sự chỉ dẫn của Bác Hồ: “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Đi theo chỉ dẫn đó, đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tiềm lực đất nước và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” – giá trị thời đại sâu sắc

Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng mang tầm chân lý, một chân lý bất hủ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và giá trị thời đại sâu sắc.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập, tự do là quyền dân tộc, quyền con người, là xuất phát điểm đối với mọi dân tộc trên con đường đi tới phồn vinh và hạnh phúc. Dân tộc không thể phát triển, đất nước không thể phồn vinh, nhân dân không thể có cơm no, áo ấm và cuộc sống hạnh phúc nếu không có được độc lập, tự do. Ý nghĩa thời đại sâu sắc và lâu dài của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” chính là ở chỗ: Có độc lập, tự do thì có tất cả. Độc lập, tự do của dân tộc; quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc trong một đất nước độc lập, tự do là vô cùng quý giá và thiêng liêng, không thể xâm phạm.

Giành lấy và bảo vệ độc lập, tự do là yêu cầu sống còn của các dân tộc. Khi độc lập, tự do bị xâm phạm thì cả dân tộc phải kiên quyết đứng lên chiến đấu đến cùng để giữ vững và bảo vệ nền độc lập và tự do ấy.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là tư tưởng mang tính cách mạng sâu sắc và triệt để. Tính cách mạng sâu sắc, triệt để của tư tưởng thể hiện ở chỗ, dù tư tưởng được Người nói đến trong một thời điểm cụ thể của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhưng nó gắn bó rất chặt chẽ với cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, một sự nghiệp vĩ đại mà Người đã phấn đấu, hy sinh cả cuộc đời. Đấu tranh giành độc lập, tự do, vì độc lập, tự do đã thực sự nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.

Tính cách mạng sâu sắc, triệt để của tư tưởng còn thể hiện cụ thể ở nội dung rộng lớn của tư tưởng, bao hàm cả việc đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Độc lập, tự do chỉ có ý nghĩa và giá trị thực sự khi nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(2). Người tìm thấy giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc trong mục tiêu và lý tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, vì vậy, Người khẳng định “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”(3).

Như vậy, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” có nội hàm rộng lớn, giá trị to lớn và tính cách mạng sâu sắc. Nó không chỉ là độc lập, tự do của Tổ quốc mà còn là hạnh phúc của nhân dân; nó không chỉ được thể hiện trong đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược, mà còn thể hiện sâu đậm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa xã hội ở Hồ Chí Minh không phải là những giáo điều cứng nhắc, xa lạ với lợi ích vật chất và tinh thần của con người, mà nó hết sức cụ thể và thiết thực. Người nói: “Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(4)…

Có thể gọi đó là chủ nghĩa xã hội “dân giàu, nước mạnh”, một quan niệm về chủ nghĩa xã hội phù hợp với quan niệm truyền thống của dân tộc Việt Nam và hợp với xu thế của thời đại hiện nay.

TTXVN

Chân Lý “Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do” Trong Di Sản Tư Tưởng Hồ Chí Minh Với Công Cuộc Đổi Mới Hiện Nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân là mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Người đã dành cả cuộc đời đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Độc lập, tự do là một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại. Chân lý đó đã và đang hiện diện trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Trên đường đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí minh đã đến nước Mỹ, tìm hiểu tinh thần bất hủ của Tuyên ngôn độc lập (năm 1776) của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Sống và làm việc ở Pari – Thủ đô nước Pháp, trung tâm văn hóa châu Âu, tiếp nhận những giá trị nhân văn của Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (năm 1791), và trên tinh thần tiến bộ của cách mạng Pháp: Tự do – Bình đẳng – Bác ái, Người đã khái quát chân lý bất di, bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Năm 1919, trên nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết đã được các nước đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất thừa nhận, đại diện cho Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gửi đến Hội nghị hòa bình Véc-xây bản Yêu sách 8 điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách yêu cầu chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương phải giải quyết quyền tự do, bình đẳng tối thiểu cho nhân dân Việt Nam. Trong đó, Người đòi quyền bình đẳng về chính trị pháp lý, yêu cầu chính quyền thực dân phải đối xử với người bản xứ Đông Dương như đối với người châu Âu, tức là phải xóa bỏ các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ khủng bố, đàn áp các bộ phận trung thực nhất trong nhân dân – những người yêu nước; phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế bằng chế độ ra các đạo luật. Đồng thời, đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, đó là các quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do lập hội, hội họp, tự do cư trú… Tuy nhiên, bản Yêu sách đó đã không được người đứng đầu của các quốc gia đồng minh chú ý.  

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc từ Mát-xcơ-va về Quảng Châu (Trung Quốc), sau đó tham gia tổ chức thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Nguyễn Ái Quốc là chủ nhiệm đồng thời là cây bút chính của tờ báo. Từ đây, những người yêu nước cách mạng Việt Nam có một diễn đàn chính thức để tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê-nin, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lên án, tố cáo tội ác thực dân, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh, theo con đường cách mạng Nga, ca ngợi chủ nghĩa cộng sản. Những số đầu của báo Thanh niên đều nêu lên vấn đề đoàn kết, đoàn kết trong cộng đồng xã hội, đoàn kết dân tộc. Tờ báo nhấn mạnh đến tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam trong suốt quá trình lịch sử của dân tộc.

Trong Chánh cương vắn tắt của Đảng cũng như trong Lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc “để đi tới xã hội cộng sản”. Tháng 5-1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”. Quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), ra báo Việt Nam độc lập, đưa ra Mười chính sách của Việt Minh với mục tiêu đầu tiên là: “Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”. Ý chí giành độc lập, tự do cho dân tộc của Người kết tinh trong câu nói bất hủ: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.

Cách mạng Tháng Tám thành công, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khẳng định trước quốc dân đồng bào và trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Trong những thư và điện văn gửi Liên hợp quốc và chính phủ các nước trong thời gian đó, Người tuyên bố: “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố rằng nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”. Nhưng khi mong muốn, thành thật hòa bình của dân tộc Việt Nam bị thực dân Pháp cố tình bỏ lỡ, sau nhiều nhân nhượng nhưng không nhận được sự đáp ứng từ phía Pháp, Người kêu gọi: “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra một chân lý mang giá trị của mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Ý chí giành độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam của Người trở thành lẽ sống của mọi người dân, để nhân dân hai miền Nam, Bắc kiên cường chiến đấu buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân là lẽ sống thiêng liêng nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi”. Và chân lý không có gì quý hơn độc lập, tự do trở thành chân lý của mọi thời đại.

Chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” và quan điểm độc lập, sáng tạo trong vận dụng kinh nghiệm nước ngoài của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giúp cách mạng Việt Nam giành những thắng lợi to lớn: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước của dân, do dân, vì dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ (năm 1954), đại thắng mùa Xuân (năm 1975), giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế.

Trong những năm qua, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Bên cạnh đó, việc thiên tai, bão lũ, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông liên tục xảy ra đã ảnh hưởng nhiều đến nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết của nhân dân với những truyền thống vẻ vang của Đảng như: Một lòng, một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết, thống nhất trong Đảng; gắn bó mật thiết với nhân dân và dân tộc; độc lập, tự chủ và sáng tạo; luôn nêu cao chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân luôn được khơi gợi và phát huy. Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, tự chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Thực hiện chân lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, tự hào với lịch sử vẻ vang của Đảng, có thể nói rằng Việt Nam đã và đang thực hiện thắng lợi Di chúc của Người: “Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

BAN TUYÊN GIÁO QUẬN ỦY

(Phạm Thị Thúy An – Chuyên viên Ban Tuyên giáo Quận ủy sưu tầm)

Sim Tứ Quý Là Gì? Ý Nghĩa Của Sim Tứ Quý 6666

Sim tứ quý luôn được khách hàng tìm kiếm nhiều nhất và có giá trị rất cao vì không chỉ là số dễ nhớ về mặt số học mà nó còn có ý nghĩa của sự đầy đủ như sự hội tụ của 4 phương, 4 mùa… hay trong chính phủ cũng luôn có 4 vị quyền lực nhất được gọi tứ trụ.

Sim tứ quý là sim có 4 chữ số cuối trùng nhau, sự lặp lại của 4 số tạo nên bộ tứ quý trong dãy số của sim, chính vì thế bản chất của sim tứ quý là rất đẹp. Các bộ tứ này gồm: 0000, 1111, 2222, 3333, 4444, 5555, 6666, 7777, 8888, 9999.

Người ta đánh giá thứ bậc của sim tứ quý, ngũ quý tùy thuộc vào ý nghĩa của các con số. Có người thấy số này đẹp nhưng có người lại cho là xấu, vì thế sim số đẹp hay xấu còn thuộc vào quan điểm cũng như ý nghĩa của con bộ số đó với từng người.

SIM tứ quý 6 là gì? Ý nghĩa SIM tứ quý 8888

Sim tứ quý 6 được hiểu đơn giản là một chiếc sim có 4 số 6 ở cuối dãy số trong sim. Sự lặp lại của bộ 4 số 6 ở cuối số sim đã tạo nên một bộ tứ quý đẹp cả về hình thức và cả về ý nghĩa.

Số 6 theo quan niệm của người phương đông và người phương tây

Trong việc luận số, người ta coi số 6 là đẹp bởi trong cách đọc của hán nôm, số 6 đồng âm với Lộc, vì vậy số 6 là biểu tưởng của Lộc, là tiền lộc, vàng lộc.

Ngoài ra số 6 cũng có những biểu hiện rất đẹp trong tự nhiên: Lục giác được đánh giá là khối vững chãi nhất; Con ong thường làm tổ theo khối lục giác; Lục căn (Mắt, Mũi, Tai, Lưỡi, Da, Tư tưởng); Lục long; Lục phủ; Lục thân (Cha, Mẹ, Vợ, Con, Anh chị, Em)…

Số 6 cũng rất có ý nghĩa với người phương Tây. Họ cho đây là con số biểu tượng của sự kết hợp giữa lửa và nước; biểu tượng của sự không ngừng nỗ lực; con số của tình yêu, hôn nhân và hạnh phúc gia đình. Thứ 6 là ngày Chúa giáng thế nên số 6 còn là số ngày sáng tạo trời đất, là con số của sự sinh sôi, nảy nở.

Do vậy tập hợp 4 con số 6 trong sim tu quy 6 Sẽ mang lại nhiều may mắn và ý nghĩa cho người dùng.

Bạn nên chọn sim tứ quý 6, sim tứ quý 6666 giá rẻ ở đâu?

Với sự hạn chế của chiếc sim tứ quý 6 không có nhiều nên việc tìm kiếm chiếc sim tứ quý 6666 này vô cùng khó khăn đối với người dùng.

Chính vì vậy, chọn lựa một cửa hàng, một đại lý sim số với kho sim khủng là điều nên làm đầu tiên của bạn khi có ý định chọn cho mình chiếc sim tứ quý 6. Với ngân hàng sim số đẹp, sim tứ quý 6, sim tam hoa…khổng lồ siêu thị sim SIMDEPVIETNAM.VN – TOP 1 Việt Nam về SIM số đẹp. Luôn là nơi được nhiều người yêu thích sim số đẹp, sim tứ quý 8888, sim tứ quý 9999,….. tin tưởng và đặt mua.

Bạn có thể chọn số đẹp phong thủy tại website Sim Đẹp Việt Nam để sở hữu sim đẹp hợp phong thủy nhất.

9: Giá Trị Lịch Sử, Ý Nghĩa Thời Đại Của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập

Nhân dịp Ngày Quốc khánh Việt Nam 2/9, trân trọng giới thiệu bài viết “Giá trị lịch sử và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945” của TS.Vũ Ngọc Am đăng trên báo điện tử Đảng Cộng sản:

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản ”Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử do chính Người chuẩn bị, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Thời gian đã qua đi hơn 2/3 thế kỷ, nhiều chi tiết nội dung trong Tuyên ngôn đã được nghiên cứu, làm sáng tỏ trên nhiều lĩnh vực. Chúng ta càng thấy rõ những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến lược của Người thể hiện trong Tuyên ngôn.

Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là văn bản pháp lý đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn độc lập còn đóng góp cho sự nghiệp giải phóng nhân loại, là sự mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới.

Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mở ra thời kỳ mới của dân tộc ta trên con đường phát triển.

Nội dung của Tuyên ngôn Độc lập đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu, làm rõ, nhưng hiện vẫn còn những luận điệu xuyên tạc, đặt câu hỏi với dụng ý xấu: Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng những câu trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp?

Điều này cần phải hiểu và lý giải rõ.

Hai là, trên nền tảng và tiền đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, chính cuộc cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi tiếp trong sự phát triển của nhân loại, đồng thời cũng là cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Đó là mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhỏ yếu thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã gương cao.

Ba là, đi sâu nghiên cứu hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy cả hai bản Tuyên ngôn đã đề cao và khẳng định quyền con người: “Mọi người đều sinh ra bình đẳng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư tưởng lớn, một luận điểm quan trọng thể hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trình bày trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một nội dung rất căn bản, có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với thời đại. Từ đó tới nay, các nước trên thế giới đã và đang liên tục đấu tranh để giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình.

Như vậy, có thể thấy, với vốn tiếng Anh cùng với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người và trên thực tế, tinh thần ấy đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay.

Đó chính là sự đóng góp về lý luận và thực tiễn về quyền con người, đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân loại.

Hơn 70 năm đã trôi qua, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện lời thề thiêng liêng trong ngày Lễ độc lập: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Với tinh thần đó mà cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong suốt hơn 70 năm qua. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức.

Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng với quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập ,chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

BBT (tổng hợp)