Ý Nghĩa Lịch Sử Của Cách Mạng Khoa Học / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Thanhlongicc.edu.vn

Bài 12: Những Thành Tựu Chủ Yếu Và Ý Nghĩa Lịch Sử Của Cách Mạng Khoa Học

Chi tiết Chuyên mục: Bài 12: Những thành tựu chủ yếu và ý nghĩa lịch sử của cách mạng khoa học-kĩ thuật

* Thành tựu:

+ Khoa học cơ bản: Thu những thành tựu trong ngành Toán, Vật lý, Hóa, Sinh được ứng dụng vào kĩ thuật và sản xuất.

+ Công cụ sản xuất mới: Máy tính điện tử, máy tự động, hệ thống máy tự động.

+ Tìm ra nguồn năng lượng mới: Năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, thủy triều …

+ Sáng chế ra vật liệu mới: Chất Pôlime

+ Cuộc “Cách mạng xanh” trong nông nghiệp đã khắc phục được nạn thiếu lương thực thực phẩm.

+ Giao thông vận tải và thông tin liên lạc có máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hỏa siêu tốc, vệ tinh nhân tạo phát sóng truyền hình rất hiện đại.

+ Chinh phục vũ trụ.

* Thành tựu quan trọng đáng chú ý nhất là chinh phục vũ trụ, vì nhờ có thành tựu này mà con người khám phá ra những bí mật của vũ trụ để phục vụ đắc lực cho cuộc sống con người trên trái đất.

* Hạn chế:

+ Tài nguyên cạn kiệt, môi trường ô nhiễm nặng (khí quyển, đại dương, sông hồ…)

+ Chế tạo ra các lọai vũ khí và các phương tiện quân sự có sức tàn phá và hủy diệt sự sống.

+ Nhiễm phóng xạ nguyên tử, tai nạn lao động, giao thông, dịch bệnh và tệ nạn xã hội.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 12: Những thành tựu chủ yếu và ý nghĩa lịch sử của cách mạng khoa học-kĩ thuật

– Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện nay đã và đang có những tác động tích cực đối với cuộc sống con người. Nó cho phép thực hiện những bước nhảy vọt về sản xuất và năng suất lao động, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của con người, đưa đến những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư lao động trong nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.

– Tuy nhiên, cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật cũng mang lại những hậu quả tiêu cực (chủ yếu do con người tạo ra) : chế tạo các loại vũ khí hủy diệt, ô nhiễm môi trường, những tai nạn lao động và giao thông, các loại dịch bệnh mới…

Chi tiết Chuyên mục: Bài 12: Những thành tựu chủ yếu và ý nghĩa lịch sử của cách mạng khoa học-kĩ thuật

– “Cừu Đô-li” ra đời bằng phương pháp sinh sản vô tính (3-1997) là một thành tựu khoa học lớn nhưng cũng gây lo ngại về mặt xã hội và đạo đức như công nghệ sao chép con người.

– “Bản đồ gen người” (6-2000, hoàn chỉnh tháng 3-2003), giải mã 99% gen người, giúp trong tương lai có thể nghiên cứu, chữa trị nhiều căn bệnh nan y như ung thư, tiểu đường, bệnh tim mạch, bệnh béo phì, nhiễm chàm ở trẻ em và tăng tuổi thọ cho người già.

Bài 12 : Những Thành Tựu Chủ Yếu Và Ý Nghĩa Lịch Sử Của Cách Mạng Khoa Học Kĩ Thuật Sau Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai

– Do các đòi hỏi của cuộc sống về kỹ thuật và sản xuất để đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người.

– Những năm gần đây, nhân loại đang đứng trước những vấn đề to lớn: bùng nổ dân số, tài nguyên cạn kiệt, ô nhiễm môi trường. Điều đó đặt ra những yêu cầu mới (công cụ sản xuất mới có kỹ thuật cao, nguồn năng lược mới, những vật liệu mới) đối với khoa học – kỹ thuật.

– Do nhu cầu phục vụ chiến tranh của các nước đế quốc.

– Do nhu cầu phục vụ chiến tranh của các nước đế quốc.

2. Đặc điểm của cách mạng khoa học – kỹ thuật

– Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

– Thời gian phát minh khoa học đến ứng dụng vào sản xuất ngày càng rút ngắn.

– Đầu tư vào khoa học có lợi nhất.

– Khoa học đang trong thời kỳ bùng nổ thông tin.

– Trong lĩnh vực khoa học cơ bản, con người đã thu được những thành tựu hết sức to lớn ở các ngành Toán học, Vật lý, Hóa học, Sinh học.

– Phát minh lớn về công cụ sản xuất (máy tính, máy tự động, hệ thống máy tự động, rô bốt).

– Tìm ra nguồn năng lượng mới: năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều, năng lượng gió, năng lượng quả đất.

– Sáng chế ra những vật liệu sản xuất mới, quan trọng nhất là polime (chất dẻo) đang giữ vị trí hàng đầu trong đời sống hàng ngày của con người cũng như trong các ngành công nghiệp.

– Nhờ cuộc “Cách mạng xanh” trong nông nghiệp mà con người đã tìm ra được phương hướng khắc phục nạn thiếu lương thực và thực phẩm.

– Những tiến bộ lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc (máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hỏa tốc độ cao, tàu biển trọng tải triệu tấn, hệ thống vệ tinh nhân tạo phát sóng truyền hình hết sức hiện đại…).

– Thành tựu chinh phục vũ trụ (tàu vũ trụ, tàu con thoi, con người đặt chân lên mặt trăng).

Năng lượng mặt trời

Sản xuất điện từ nguồn năng lượng gió

20/07/1969, phi hành gia người Mỹ Neil Amstrong đã đặt chân lên mặt Trăng

II. Ý nghĩa và tác động của cách mạng khoa học – kĩ thuật

1. Ý nghĩa

– Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật có ý nghĩa vô cùng lớn lao, như một cột mốc lớn chói lọi trong lịch sử tiến hóa văn minh loài người .

– Mang những tiến bộ phi thường, những thành tựu kì diệu.

-Tạo nên những đổi thay to lớn trong cuộc sống.

– Cách mạng khoa học kỹ thuật đã mang lại những tiến bộ phi thường, những thành tựu kỳ diệu làm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người.

– Cho phép con người thực hiện những bước nhảy vọt chưa từng thấy về năng suất lao động.

– Thay đổi cơ cấu dân cư lao động với xu thế tỷ lệ dân cư lao động trong nông nghiệp và công nghiệp giảm dần, tỷ lệ dân cư trong các ngành dịch vụ tăng dần.

– Đưa loài người sang nền văn minh thứ ba, nền văn minh sau thời kỳ công nghiệp hóa, lấy vi tính, điện tử, thông tin và khoa sinh hóa làm cơ sở.

– Làm cho sự giao lưu kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật… ngày càng quốc tế hóa cao.

– Chế tạo các loại vũ khí và các phương tiện quân sự có sức tàn phá và hủy diệt sự sống.

– Nạn ô nhiễm môi trường (ô nhiễm khí quyển, đại dương, sông hồ…).

– Nhiễm phóng xạ nguyên tử, tai nạn lao động, tai nạn giao thông gắn liền với kỹ thuật mới, dịch bệnh và tệ nạn xã hội…

* Hướng dẫn trả lời câu hỏi

1. Cho biết nguồn gốc của cuộc Cách mạng khoa học – kĩ thuật ngày nay?

Nguồn gốc của cuộc Cách mạng khoa học – kĩ thuật ngày nay là do những đòi hỏi của cuộc sống, của sản xuất nhằm đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao của con người, nhất là trong tình hình bùng nổ dân số thế giới và sự vơi cạn nghiêm trọng các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

2. Cho đến nay, trong lịch sử loài người đã diễn ra mấy lần cách mạng kĩ thuật?

Đến nay, trong lịch sử loài người đã diễn ra 2 lần cách mạng kĩ thuật. Đó là:

– Cách mạng kĩ thuật lần thứ nhất hay Cách mạng công nghiệp thế kỉ XVIII

– Cách mạng kĩ thuật lần thứ hai hay Cách mạng khoa học – kĩ thuật thế kỉ XX, bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và hiện đang diễn ra ngày càng sâu rộng trên thế giới

3. Em hãy cho biết nội dung chủ yếu của cuộc Cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai?

Nội dung chủ yếu của cuộc Cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai là:

– Tự động hóa cao độ bằng cách sử dụng rộng rãi máy tính điện tử

– Hiện đại hóa kĩ thuậ và sản xuất trên cơ sở những phát minh khoa học mới nhất

– Sử dụng những nguồn năng lượng mới, những vật liệu mới, những công cụ sản xuất mới

– Tấn công vào lòng các đại dương, đi sâu vào lòng đất, nghiên cứu bí mật của sự sống, thám hiểm vũ trụ bao la.

4. Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuận lần thứ hai có những đặc điểm gì?

– Đặc điểm lớn nhất của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai là khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp

– Mọi phát minh về kĩ thuật đều bắt nguồn từ nghiên cứu khoa học. Khoa học gắn liền với kĩ thuật, khoa học đi trước mở đường cho kĩ thuật. Vì vậy khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp

– Thời gian từ phát minh khoa học đến ứng dụng vào sản xuất ngày càng rút ngắn và hiệu quả ngày càng cao của công tác nghiên cứu khoa học.

5. Nêu những thành tựu chủ yếu của cuộc Cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai?

Trải qua nhiều thế kỉ, cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật đã đạt được những tiến bộ phi thường và những thành tựu kì diệu trên tất cả các lĩnh vực :

– Những phát minh to lớn trong lĩnh vực khoa học cơ bản như toán học, vật lí, hóa học và sinh học. Dựa vào những phát minh này, con người đã ứng dụng vào kĩ thuật và sản xuất để phục vụ cuộc sống của mình như phương pháp sinh sản vô tính, ” Bản đồ gen người”.

– Những phát minh lớn về những dụng cụ sản xuất mới, đặc biệt là máy tính điện tử, máy tự động và hệ thống máy tự động.

– Tìm ra được những nguồn năng lượng mới hết sức phong phú và vô tận như năng lượng nguyên tử, năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió, năng lượng thủy triều…

– Sáng chế ra những vật liệu mới như chất pô-li-me (chất dẻo) với độ bền và sức chịu nhiệt cao, được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày của con người cũng như trong các ngành công nghiệp.

– Cuộc “Cách mạng xanh” trong nông nghiệp. Nhờ cuộc “Cách mạng xanh” này, nhiều nước đã có thể khắc phục được nạn thiếu lương thực, đói ăn kéo dài từ bao đời nay.

– Những tiến bộ thần kì trong lĩnh vực giao thông vận tải và thông tin liên lạc như máy bay siêu âm khổng lồ, tàu hỏa tốc độ cao và những phương tiện thông tin liên lạc, phát sóng vô tuyến qua hệ thống vệ tinh nhân tạo.

– Những thành tựu kì diệu trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ như phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Trái Đất, bay vào vũ trụ và đặt chân lên Mặt Trăng.

6. Trong thời gian gần đây có thành tựu khoa học – kĩ thuật nào quan trọng đáng chú ý?

Trong thời gian gần đây thành tựu khoa học – kĩ thuật quan trọng đáng chú ý là :

– Tháng 3 – 1997, các nhà khoa học đã tạo ra được một con cừu bằng phương pháp sinh sản vô tính từ tế bào lấy ở tuyến vũ một con cừu đang có thai. Con cừu này được đặt tên là Đô-li

– Vào tháng 6-2000, Tiến sĩ Cô-lin – Giám đốc sở Nguyên cứu gen nhân loại quốc gia (Mĩ) đã công bố “Bản đồ gen người”

– Tháng 3-2002, người Nhật đã sử dụng cỗ máy tính lớn nhất có tên gọi là “máy tính mô phỏng thế giới” (ESC) có khả năng làm hơn 35 nghìn tỉ phép tính trong một giây.

7. Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai có gì khác so với cuộc cách mạng công nghiệp ở thế kỉ XIX?

Những điểm khác biệt giữa Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai với cuộc cách mạng công nghiệp ở thế kỉ XIX là :

– Có nội dung phong phú và phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều

– Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp

8. Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai có ý nghĩa như thế nào?

Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai có ý nghĩa vô cùng to lớn như một cột mốc chói lọi trong lịch sử tiến hóa văn minh của loài người, mang lại những tiến bộ phi thường, những thành tựu kì diệu và những thay đổi to lớn trong cuộc sống của con người.

9. Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai đã và đang có những tác động như thế nào đối với cuộc sống của con người?

* Tích cực:

– Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật lần thứ hai đã cho phép thực hiện những bước nhảy vọt chưa từng thấy về sản xuất và năng suất lao động, nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của con người với những hàng hóa mới và tiện nghi sinh hoạt mới.

– Cách mạng khoa học – kĩ thuật đã đưa tới những thay đổi lớn về cơ cấu dân cư lao động với xu hướng tỉ lệ dân cư lao động trong nông nghiệp và công nghiệp giảm dần, tỉ lệ dân cư lao động trong các ngành dịch vụ ngày càng tăng lên, nhất là ở các nước phát triển cao.

– Hình thành một thị trường thế giới với xu thế toàn cầu hóa.

* Hạn chế:

Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật do con người làm chủ nên được sử dụng theo những mục đích khác nhau. Nếu được sử dụng đúng hướng sẽ mang lại nguồn lực và sức mạnh to lớn. Ngược lại, nếu được sử dụng với mục đích trái với lợi ích phát triển của nhân loại có thể dẫn tới những sự tàn phá không lường hết được.

– Đã tạo ra nhiều vũ khí hủy diệt có số lượng lớn mà chỉ cần một phần rất nhỏ trong số đó đã đe dọa sự sống của loài người.

– Tài nguyên ngày càng kiệt quệ, Trái Đất đang kêu cứu.

– Môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa sự sống của loài người.

– Sinh ra nhiều bệnh tật, tai nạn gắn liền với kĩ thuật hiện đại

– Đặt ra nhiều vấn đề xã hội gắn liền với kĩ thuật hiện đại.

Những hậu quả nói trên đang đặt ra cho nhân loại nhiều vấn đề cấp bách :

– Phải bảo vệ tài nguyên – môi trường

– Phải sử dụng thành tựu khoa học – kĩ thuật vào mục đích hòa bình.

10. Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện nay đã và đang mang lại những hậu quả tiêu cực như thế nào đối với cuộc sống con người?

Cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật hiện nay đã và đang mang lại những hậu quả tiêu cực (chủ yếu do chính con người tạo ra), đó là :

– Chế tạo các loại vũ trí và phương tiện quân sự có sức tàn phá và hủy diệt sự sống.

– Nạn ô nhiễm môi trường (ô nhiễm khí quyển, đại dương, sông hồ…. và tất cả những “bãi rác” trong vũ trụ)

– Việc nhiễm phóng xạ nguyen tử, những tai nạn lao động và tai nạn giao thông, những bệnh dịch mới

– Những đe dọa về đạo đức xã hội và an ninh đối với con người.

Ý Nghĩa Lịch Sử Ngày Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam 18 Tháng 5

(KDPT) – Như chúng ta đều biết Khoa học và Công nghệ (KH&CN) đã có nhiều đóng góp to lớn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một sự kiện có ý nghĩa lịch sử của ngành, ngày 18/5/1963 tại Đại hội lần thứ Nhất của Hội phổ biến Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và phát biểu: “…Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”…

Câu nói cô đọng trên của Người đã chỉ rõ nguyên lý, mục tiêu và sứ mệnh cao cả của nền khoa học và công nghệ nước nhà. Lời dạy này đã trở thành kim chỉ nam cho KH&CN Việt Nam trong suốt chặng đường xây dựng và bảo vệ đất nước.

Ngày 18 tháng 5 là ngày có ý nghĩa lịch sử đặc biệt quan trọng không chỉ với giới trí thức khoa học công nghệ Việt Nam mà còn đối với cơ quan Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam.

Những năm qua, khoa học và công nghệ không chỉ khẳng định vai trò và sức mạnh vô cùng to lớn trong các lĩnh vực công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà còn trở thành động lực then chốt của sự nghiệp Đổi mới và phát triển. Những thành tựu khoa học và công nghệ ngày càng được quan tâm, nghiên cứu, ứng dụng, phổ biến và áp dụng sâu rộng trong thực tiễn, tác động tích cực đến phát triển kinh tế – xã hội, góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp của văn hóa, con người Việt Nam.

Để nêu cao tinh thần, trách nhiệm của cộng đồng xã hội đối với sự nghiệp khoa học và công nghệ nói chung, tôn vinh quá trình lao động, sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thống nhất chọn ngày 18 tháng 5 hàng năm là ngày kỷ niệm Khoa học và công nghệ Việt Nam.

Ngày 18 tháng 5 năm 1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ đến dự và chúc mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Hội Phổ biến khoa học, kỹ thuật Việt Nam (tiền thân của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam). Trong bài phát biểu của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết những luận điểm quan trọng nhất về phát triển khoa học và công nghệ ở nước ta, đồng thời giao nhiệm vụ vừa khó khăn, nhưng lại vừa vinh quang này cho giới trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam. Người khẳng định: “Chúng ta đều biết rằng trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp. Phong tục tập quán lạc hậu nhiều. Nhiệm vụ của khoa học là ra sức cải biến những cái đó…

…Khoa học phải tự sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi

… các cô, các chú phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân thi đua sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ,…”

Lời căn dặn ngắn gọn, súc tích của chủ tịch Hồ Chí Minh trải qua hơn 50 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị, thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu rộng, tư tưởng lớn của Người đối với định hướng phát triển lâu dài của nền khoa học và công nghệ nước nhà. Khoa học và công nghệ phải chỉ là lý thuyết mà còn phải gắn nghiên cứu với ứng dụng, với hoàn cảnh thực tiễn ở Việt Nam, phải không ngừng cải tiến kỹ thuật, liên kết chặt chẽ với quá trình lao động, sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân. Khoa học và công nghệ phải gắn với lao động, sáng tạo không mệt mỏi của trí thức Việt Nam, không chỉ biểu hiện ở nghiên cứu sách vở mà trí thức còn phải biết vận dụng, đem những thành tựu khoa học và công nghệ phổ biến cho nhân dân để có hiệu quả thực hành, ứng dụng rộng rãi, mang lại lợi ích cho quốc gia, dân tộc.

Hơn 50 năm qua, đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam không ngừng lớn mạnh, có mặt trong mọi ngành khoa học, mọi lĩnh vực phát triển kinh tế- xã hội trên khắp mọi miền đất nước. Học tập và lĩnh hội tư tưởng chỉ đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ Việt Nam đã không ngừng nỗ lực nghiên cứu khoa học, tăng cường trao đổi, phổ biến kiến thức, ứng dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ mục tiêu phát triển cộng đồng, phát triển xã hội, xây dựng nền khoa học và công nghệ Việt Nam ngày càng hiện đại và hội nhập với những nền khoa học và công nghệ tiên tiến trên thế giới.

Giới khoa học chọn ngày 18/5 bởi ngày này gắn với một sự kiện lịch sử. Đó là vào ngày 18/5/1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và phát biểu tại Đại hội lần thứ nhất của Hội phổ biến Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động, không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Trong lời nói ngắn gọn nêu trên, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ nguyên lý, mục tiêu và sứ mệnh cao cả của khoa học và công nghệ. Lời dạy của Hồ Chí Minh đã trở thành kim chỉ nam cho khoa học công nghệ Việt Nam trong suốt chặng đường bảo vệ và xây dựng đất nước hơn 50 năm qua.

Tại Kỳ họp Quốc hội Khóa XIII, Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi) được Quốc hội biểu quyết thông qua; trong đó quy định lấy ngày 18/5 hằng năm là Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Nguyễn Thu

Ý Nghĩa Của Ngày Khoa Học

Ngày 18/5/1963 lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với các nhà trí thức trong một Hội nghị phổ biến khoa học do Hội phổ biến khoa học kỹ thuật tổ chức lần đầu tiên (Hội được thành lập từ năm 1963, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo). Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự phát triển của KH&CN vì Người cho rằng nó có ảnh hưởng rất lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Người không ngừng chăm lo bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ KH&CN để phục vụ cho nước nhà. Khi nói về khoa học công nghệ, những vấn đề Người quan tâm hàng đầu đó là:

– Khoa học phải từ sản xuất mà ra;

– KH&CN phải bảo vệ môi trường thiên nhiên;

– Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực khoa học và trọng dụng nhân tài.

Quan điểm của Người ngày hôm nay vẫn còn nguyên giá trị, nó được thể hiện đầy đủ và sâu sắc trong chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia đến 2030 và tầm nhìn 2050, đã và đang được triển khai chi tiết trong chương trình khoa học công nghệ của tất cả các ngành lớn, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước.

Quan điểm về “Khoa học phải từ sản xuất mà ra” Bác Hồ đã phân tích: “Chúng ta đều biết rằng trình độ khoa học, kỹ thuật của ta hiện nay còn thấp kém. Lề lối sản xuất chưa cải tiến được nhiều. Cách thức làm việc còn nặng nhọc. Năng suất lao động còn thấp. Phong tục tập quán lạc hậu còn nhiều,…”(1). Cho nên “Khoa học phải từ sản xuất mà ra và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân, bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi”. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta là nước chậm phát triển, việc xây dựng tiềm lực KH&CN hướng tới hiện đại, làm cho sản xuất phát triển nhanh, tạo điều kiện nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là bảo đảm các yêu cầu cơ bản, xóa đói giảm nghèo. Người khẳng định: “Nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật là cực kì quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học, kỹ thuật, để nâng cao năng suất lao động, sản xuất ra nhiều của cải vật chất, để xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

Quan điểm về “KH&CN bảo vệ môi trường thiên nhiên” x uất phát từ thực tiễn Việt Nam mà trước mắt là cải thiện môi trường, hạn chế hậu quả của thiên tai được hình thành từ rất sớm trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm ấy còn có trước cả khi thế giới đề ra phong trào bảo vệ môi trường sau khủng hoảng hoá dầu đầu những năm 70 của thế kỷ 20. Bản thân Người rất quan tâm và sống hòa mình, gần gũi với thiên nhiên. Trong vấn đề bảo vệ môi trường ở nước ta, Bác nhấn mạnh đến việc giữ gìn, bảo vệ “môi trường xanh” chính là thảm thực vật, là rừng. Người kêu gọi: “Người người trồng cây, nhà nhà trồng cây” để bảo vệ môi trường sinh thái cho chính cuộc sống của con người. Người khởi xướng phong trào Tết trồng cây vào năm 1959 và đưa ra một lộ trình cụ thể. Cùng với quá trình CNH, HĐH, sẽ có rất nhiều vấn đề bảo vệ môi trường được đặt ra. Bảo vệ, cải thiện môi trường mà chính KH&CN là yếu tố then chốt bảo đảm cho sự phát triển nhanh, bền vững là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta. Do vậy, chúng ta càng cần phải đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về KH&CN để xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.

Quan điểm về “Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực khoa học và trọng dụng nhân tài” Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc đoàn kết, tập hợp đội ngũ trí thức, trọng dụng nhân tài, tạo điều kiện tối đa cho trí thức phát huy tài năng, hiểu biết của mình phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Bên cạnh sự quan tâm và chính sách trọng dụng nhân tài, Người cũng đặc biệt chú ý đến việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho lĩnh vực KH&CN. Bác rất coi trọng xây dựng “con người mới” bởi con người là nhân tố quyết định mọi thành công. Bác căn dặn những người làm khoa học: “Các đồng chí phải đi xuống tận các xí nghiệp, các hợp tác xã, hỏi han công nhân, nông dân yêu cầu gì, họ làm ăn và sinh sống như thế nào và phổ biến những điều cần thiết giúp đỡ họ cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Các đồng chí phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và khoa học, kỹ thuật; phải góp tài góp sức để cải biến bộ mặt xã hội của nước ta, làm cho nhân dân ta sản xuất và công tác theo khoa học, và đời sống của nhân dân ta văn minh, tức là khoa học, lành mạnh và vui tươi. Đó là nhiệm vụ rất nặng nề mà cũng rất vẻ vang”.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về khoa học, công nghệ vẫn mãi là kim chỉ nam, là động lực để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực, tạo nên ngày càng nhiều thành tích về khoa học, công nghệ, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ hằng mong ước.

GIỚI THIỆU TÓM TẮT VỀ LUẬT KHOA HỌC CÔNG NGHỆ:

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều, theo Nghị quyết số 51/2001/QH10, Quốc hội ban hành Luật khoa học và công nghệ. (s ố: 29/2013/QH13, ngày 18/6/2013) bao gồm 9 chương, 81 điều, trong đó có Điều 7 quyết định ngày khoa học và công nghệ Việt Nam là Ngày 18 tháng 5 hàng năm. Theo dõi toàn bộ văn bản luật có thể tra cứu trên trang web chính phủ, đối với doanh nghiệp lưu ý một số điều sau:

Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.

Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.

Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.

Điều 4. Nhiệm vụ của hoạt động khoa học và công nghệ

Xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; góp phần xây dựng nền giáo dục tiên tiến, xây dựng con người mới Việt Nam; kế thừa và phát huy giá trị truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và đóng góp vào kho tàng văn hoá, khoa học của thế giới.

Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, phương pháp quản lý tiên tiến; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người; kịp thời dự báo, phòng, chống, hạn chế và khắc phục hậu quả thiên tai.

Tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới để tạo ra, ứng dụng có hiệu quả công nghệ mới; tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao; phát triển nền khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, tiếp cận với trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc cho việc phát triển các ngành công nghiệp hiện đại; đẩy mạnh việc phổ biến và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống.

Điều 5. Nguyên tắc hoạt động khoa học và công nghệ

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển khoa học và công nghệ.

Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Bảo đảm quyền tự do sáng tạo, phát huy dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ vì sự phát triển của đất nước.

Trung thực, khách quan, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe con người, bảo vệ môi trường.

Điều 6. Chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ Nhà nước thực hiện các chính sách sau đây nhằm bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu:

Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ; áp dụng đồng bộ cơ chế, biện pháp khuyến khích, ưu đãi nhằm phát huy vai trò then chốt và động lực của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân;

Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ; gắn nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ với nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tạo tiền đề hình thành và phát triển kinh tế tri thức;

Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và hiện đại, nghiên cứu làm chủ và tạo ra công nghệ mới nhằm đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và năng lực cạnh tranh của sản phẩm;

Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, chú trọng lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm quốc gia; áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để phát triển, đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực khoa học và công nghệ;

Tạo điều kiện phát triển thị trường khoa học và công nghệ;

Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ;

Khuyến khích, tạo điều kiện để hội khoa học và kỹ thuật, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và hoạt động khoa học và công nghệ;

Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ; nâng cao vị thế quốc gia về khoa học và công nghệ trong khu vực và thế giới.

Điều 25. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ

Nhiệm vụ khoa học và công nghệ được tổ chức dưới hình thức chương trình, đề tài, dự án, nhiệm vụ nghiên cứu theo chức năng của tổ chức khoa học và công nghệ và các hình thức khác.

Nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước bao gồm nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh và cấp cơ sở do cơ quan có thẩm quyền quy định tại

Điều 59. Các quỹ hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ

Nhà nước thành lập, khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập quỹ để huy động nguồn lực xã hội nhằm hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ.

Quỹ phát triển khoa học và công nghệ được thành lập theo quy định của Luật này. Quỹ đổi mới công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao được thành lập theo quy định của Luật chuyển giao công nghệ, Luật công nghệ cao.

Cơ chế, hình thức hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ của quỹ được thực hiện theo điều lệ tổ chức và hoạt động của quỹ.

Điều 63. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp

Doanh nghiệp ngoài nhà nước được khuyến khích thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của mình hoặc đóng góp vào Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của ngành, địa phương và được hưởng quyền lợi theo quy định của Quỹ.

Doanh nghiệp nhà nước phải trích một tỷ lệ tối thiểu thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp. Chính phủ quy định cụ thể tỷ lệ trích thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để thành lập quỹ và cơ chế quản lý, sử dụng quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp nhà nước.

Doanh nghiệp có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng quỹ đúng mục đích thành lập quỹ và thông báo việc thành lập quỹ cho cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ địa phương nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp.

Nhận thức được vai trò, vị trí hết sức quan trọng của KH&CN, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt từ khi tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, Đảng ta đã sớm có các định hướng và chỉ đạo đúng đắn về phát triển KH&CN. Quan điểm coi KH&CN là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa được khẳng định và quán triệt trong nhiều văn kiện của Đảng thời kỳ đổi mới. Việc quyết định có ngày KH&CN quốc gia một lần nữa khẳng định quan điểm rõ ràng của Đảng trong xây dựng và phát triển tiềm lực, phát triển nhanh, mạnh, toàn diện các lĩnh vực trong nền kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện an sinh xã hội và chất lượng cuộc sống.