Sưu tầm ý nghĩa các loài hoa
Hoa Bướm – PansyNhớ nhung Hoa Bướm còn được gọi là Tử La Lan, hoặc thông dụng hơn là hoa păng-xê, từ chữ “pensée” trong tiếng Pháp hay “pansy” trong tiếng Anh. Người ta thường gửi loài hoa này đến những người gần gũi và thân thiết nhất để nhắc nhớ đến nhau. Loài hoa này có những cánh phẳng xòe rộng, mượt mà như nhung, với nhiều màu sắc rực rỡ. Ngày nay, hoa Bướm thường được trồng trong vườn, xuất xứ từ loài păng-xê dại, mà thi hào Shakespeare của Anh từng gọi là “Tình yêu vu vơ”. Người đời đã yêu mến đặt cho loài hoa này nhiều biệt danh khác nhau, mà nổi bật nhất có lẽ là Thanh thản (Heartsease), bởi vì người ta tin rằng nếu bạn luôn giữ bên mình những cánh hoa này thì bạn sẽ chắc chắn nhận được tình yêu của người bạn yêu .
Ta gởi cho người vào dịp đầu năm Những đóa păng – xê Vàng rực như tia nắng, tím ngắt như trời đêm Những đoá hoa nhớ nhung … Và hãy gửi trở lại ta một ý nghĩ của người
Sarah Doudney
Cát cánh – Bluebell Thủy chung
Cát cánh là một trong các loài hoa dại cứng cỏi nhất, chúng thường trở lại một cách thủy chung năm này qua năm khác, và chắc hẳn chúng mang ý nghĩa của sự bền bỉ là do khả năng tồn tại bền vững một khi đã được trồng trong khu vườn của chúng ta. Ở những nơi hoang dã, loài hoa này phủ những tấm thảm xanh ngát màu da trời lên những cánh rừng vào mỗi độ tháng Năm. Song, chúng sẵn sàng khước từ khi bị chiếm đọat: những đoá hoa hình quả chuông lay động sẽ nhanh chóng rủ xuống một khi bị hái.
Cát cánh đôi khi bị lầm lẫn với hoa Harebell (Huệ dạ hương) hay Bluebell xứ Xcốtlen, là một loài hoa khác hẳn thuộc họ Campanula. Tên nhóm là Endymion lấy theo tên một chàng chăn cừu trẻ đẹp được nữ thần mặt trăng Selene đem lòng yêu thương. Đây là một thiên tình ca đầy thơ mộng trong thần thoại Hy Lạp.
Selene yêu Endymion tha thiết. Endymion lại chẳng hề biết đến tình yêu ấy. Chàng chỉ ước mơ một điều là được trẻ đẹp mãi. Chấp nhận lời khẩn cầu của chàng, thần Zeus đã giáng xuống đôi mắt chàng một giấc ngủ triền miên. Selene được tin rất đỗi buồn rầu. Nàng cưỡi cổ xe song mã, cỗ xe có đôi ngựa trắng muốt như tuyết xuống trần gian. Nàng đến động Latmos huyền diệu, nơi Endymion đang chìm đắm trong giấc ngủ vĩnh hằng. Selene ôm lấy chàng, phủ lên người chàng những chiếc hôn nồng ấm. Nàng đưa tay vuốt ve người chàng, nằm xuống bên chàng, nghe tiếng tim chàng đập và say sưa uống từng hơi thở nồng nàng của chàng. Và cứ thế, hàng đêm, khi bóng tối đã bao phủ cả trái đất, Selene lại mặc chiếc áo dài trắng muốt, trên mũ cài một lưỡi liềm, lặng lẽ uy nghi đi ngang qua bầu trời. Nàng hiền hoà tỏa ánh sáng trắng bạc xuống đất. Khi đã đi khắp vòm trời, nàng lại lặng lẽ đến cái hang sâu vùng với Endymion. Nàng cúi xuống bên chàng, vuốt ve chàng, nỉ non những lời ân ái.
Năm tháng cứ trôi đi, Endymion vẫn ngủ triền miên còn Selene vẫn giữ mãi mối tình thủy chung, thầm lặng mà tuyệt vọng ấy. Vì vậy, ánh sáng của nàng ban đêm chiếu xuống trần gian cũng đượm vẻ mơ màng, buồn bã. Hình như những mối tình thầm lặng và tuyệt vọng đều đẹp, đều êm ái, nhẹ nhàng và bàng bạc như ánh trăng nhưng đều nhiễm phải cái nỗi buồn man mác của nữ thần Selene.
Cúc Dại – Daisy Ngây thơ daisy Marguerite daisy
Cúc dại là loài hoa nhỏ thường mọc hoang, có những cánh trắng ngần, từ giữa tỏa ra như hình nan hoa quanh một nhụy vàng tươi. Đây là loại hoa của trẻ em. Chúng thường thích hái Cúc dại để kết thành bó hay xâu thành chuỗi. Ở bên Anh, Cúc dại còn được gọi là Baby’s pet hay Bairnwort có nghĩa là hoa trẻ em.
Nếu một cô gái nhỏ nhắm mắt lại và hái một chùm Cúc dại rồi đếm thì số hoa trong chùng hoa đó sẽ là số năm còn lại trước khi lấy chồng. Các cô thiếu nữa thường đoán số mạng của mình bằng cách lần lượt bứt ra từng cánh của một bông Cúc dại đồng thời lập đi lập lại điệp khúc:
– “Chàng yêu ta, chàng không yêu ta “….
Daisy có nghĩa là day’s eye hay con mắt của ban ngày: nó mở ra cùng với ánh sáng ban mai và rồi khép lại những cánh trắng khi mặt trời lặn xuống, như thể là nó đi ngủ.
Uất Kim Hương – Tulip Màu đỏ : Tuyên ngôn của tình yêu Lốm đốm nhiều màu sắc : Đôi mắt đẹp Màu vàng: Tình tuyệt vọng
Không có một loài hoa nào từng trải qua nhiều lần đổi thay trong sự hoan nghênh, hâm mộ của người đời như Uất kim hương. Trong nhiều năm trời loài hoa này bị bỏ mặc trong những công viên thị xã, những khu vườn của các nhà ga xe lửa, thế rồi giờ đây nó lại được ca tụng nồng nhiệt về sắc màu rực rỡ và những cánh hoa trông tựa như áo dài vũ hội của phụ nữ. Được chăm chú và quý chuộng như châu báu bởi người Thổ Nhĩ Kỳ, và cũng được đánh giá cao bởi người Ba Tư, tên Tulip của loài hoa này ph’at xuất từ chữ “tulipant” trong tiếng Ba Tư có nghĩa là cái khăn xếp, để diễn tả hình dáng của hoa. Uất Kim hương thâm nhập vào châu Âu từ thế kỷ XWI và được chào đón khắp nơi, song chỉ có ở Hà Lan loài hoa này mới được đưa vào kinh doanh trên quy mô lớn. Việc trồng, mua và bán hoa Tulip đôi lúc trở nên điên cuồng tới mức đe dọa cả nền kinh tế. Vài thập kỷ sau đó, hội chứng cuồng si Tulip đã ập đến nước Anh và Chính phủ buộc lòng phải thông qua một sắc luật giới hạn giá cả của một củ Uất Kim hương là 400 bảng Anh.
Hoa Hồng – Rose
Từ đầu thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, nhà thơ trũ tình Sappho trên đảo Lesbos thuộc Hy Lạp đã từng viết : Nếu như vị thần Jupiter – vị chúa tể của các vị thần – muốn tìm một nữ hoàng cho thế giới loài hoa thì hẳn Người sẽ chọn hoa hồng. Hoa hồng là đứa con xinh xắn nhất của buổi sáng đẫm sương, là viên ngọc quý trang điểm cho bộ ngực trái đất, là ánh sáng rực rỡ trên những thảm cỏ xanh và là hơi thở của tình yêu…
Cánh Hồng có những cuống lá đầy gai rất đặc trưng, với những lá kép mọc xen kẽ đối nhau, nở ra những đóa hoa nhiều màu sắc, có nhiều nhị hoa và thường tỏa hương thơm. Từ xa xưa, hoa Hồng đã được coi là trượng trưng cho tình yêu. Song, mỗi loại Hồng khác nhau lại mang những ý nghĩa riêng: Hồng trắng là sự trong sạch và tình yêu tinh thần; Hồng vàng là tình yêu phai nhạt và sự không chung thủy; Hồng đỏ là biểu tượng muôn đời của tình yêu đam mê; Hồng Pháp (Rose la France) là tình yêu lãng mạng phóng đãng, Hồng Cabbage (xuất xứ từ Caucasus và là loại hoa Hồng phổ biến khắp nơi hiện nay) là sứ thần của tình yêu; và Hồng đơn (chỉ có một lớp cánh hoa) tượng trưng cho sự giản dị.
Hoa Lan Chuông – Lily of the Valley Hạnh phúc tìm lại
Không có gì lạ khi hoa Lan chuông được coi như tượng trưng của hạnh phúc tìm lại, vì đây là loài hoa ngọt ngào dễ thương nhất. Người đời nói rằng những đóa hoa trắng xinh xắn hình chuông này với mùi thơm thanh khiết đặc biệt không thể lẫn lộn – đã lôi cuốn những con họa mi ra khỏi tổ và dẫn chúng đi gặp người bạn tình của mình.
Hoa Lan chuông nở ra trên một loài cây lưu niên thân thảo thường mọc trong bóng mát, mỗi cây chỉ có một cặp nhánh mà mỗi nhánh mang những chiếc lá hình thuôn cùng với một chùm hoa nở rộ, tỏa hương rất thơm. Có người còn gọi là hoa Linh lan, hay hoa Huệ củ thung lũng. Ở phương Tây, hoa Lan chuông còn có tên là May Lily và Our Lady’s Tears vì người đời tin rằng chúng mọc lên từ những giọt nước mắt của Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá. Loài hoa này thường được các linh mục cho trồng để trang trí bệ thờ và còn được gọi là Ladder to Heaven (thang dẫn lên thiên đường) bởi vì những bông hoa nhỏ bé hình chuông này mọc lên đều đặn từ cuống, giống như những bậc thang.
Hồn tôi đau đớn muộn phiền Giác quan tê cóng nỗi bàng hoàng xưa Hay là độc dược cần sa Đưa hồn xa cõi lãng quên tuyệt mù Nhẹ nhàng tung cánh phiêu du Trong niềm diễm phúc ngọt ngào tình ta Xanh rờn thảm cỏ bóng cây Mùa hè vang tiếng bài ca dâng đời
Ode To A Nightingale, John Keats, 1795-1821
Lan Dạ Hương – Hyacinth Nỗi buồn
Trong huyền thoại Hy chúng tôi có một chàng tuổi trẻ đdd.ep tai tên gọi Hyacinthus, ở xứ Sparta. Chàng là chúng tôi thân của Apollo, vị thần mặt trời vẫn thường ngự trên chiếc chiến xa song mã bay từ trên trời xuống trái đất để chơi đùa với Hyacinthus. Một ngày nọ hai người rủ nhau thi ném dĩa xem ai là người ném xa nhất. Bấy giờ có thần gió Zephyrus đứng coi. Thần gió vốn sãn ghen tuông với thần Apollo, vì ông ta mến thích Hyacinthus và đang tìm dịp trả hận. Khi tới lượt Apollo ném cái dĩa tròn và nặng, Zephyrus bèn thổi một ngọn gió Tây làm cho cái dĩa chuyển hướng đánh trúng vào đầu Hyachinthus một cú chí tử. Apollo tràn ngập nỗi buồn nên đã khiến những đóa Lan dạ hương mọc lên từ vũng máu của bạn mình. Bằng cách đó, Apollo giữ cho kỷ niệm về người bạn thân thiết sẽ còn sống mãI.
Cây Lan dạ hương mọc từ củ, có những chiéc lá xẻ rãNh và hoa mọc thành chùm màu trắng, vàng, đỏ, xanh da trời, hay đỏ tía.
Loa Kèn – LilyTrong Trắng Hoa Loa kèn – còn được gọi là Huệ tây, Huệ trắng, hay Bách hợp – được coi là biểu tượng của sự trong sạch và là một trong các loài hoa xưa nhất thế giới. Ngày nay ta còn tìm thấy những đóa Loa kèn được vẽ trên tường những tòa lâu đài cổ Hy Lạp, nơi mà Loa Kèn là loại hoa của chính nàng Hera, vợ của thần Zeus (và cũng là nữ thần của phụ nữ và hôn nhân).
Hoa Loa kèn được dâng tặng Đức Mẹ Đồng Trinh để tỏ lòng kính trọng đối với sự trong sạch của Người, có lẽ đó là lý do vì sao các cô dâu thích có những cành Loa kèn trong bó hoa ngày cưới, và vì sao hoa này có mặt trong nhiều buổi lễ hội tôn giáo. Còn theo thuyền thuyết thì đóa hoa Loa kèn đều tiên đã mọc lên từ những giọt nước mắt của nàng Eva khi nàng bước chân rời khỏi Vườn địa đàng.
Và trong ánh bạc sáng lung linh Những đóa Loa kèn trang nghiêm đứng đó Như những nữ tu trinh bạch, ngọc ngà Trong bài kinh cầu nguyện Nhả ra nhữNg làn hơi thanh khiết Khiến không trung trở nên thánh thiện Và hương hoa tràn ngập màn đêm, thơm ngát.
VÔ DANH
Hoa Nhài – Jasmine
Nhài vàng – Duyên dáng và tao nhã yellow jasmine
Nhài trắng – Dễ thương
Nhài Tây Ban Nha – đam mê khoái cảm
Nhài là loại cây mọc thành bụi có hoa thơm màu trắng, vàng, hoặc đỏ, được dùng để chế biến nước hoa hay để ướp trà. Nó thuộc loại cây vùng nhiệt đới hay cận nhiệt đới.
Trong tiếng Anh, hoa Nhài được gọi là Jasmine, xuất xứ tư các chữ Ả Rập: “jas” nghĩa là tuyệt vọng và “min” là lời nói dối. Đây là loài hoa nổi tiếng nhờ hương thơm nồng nàn kỳ lạ, đặc biệt tỏa hương ngào nhạt về đêm. Người Hindu đã gán cho loài hoa này một tên gọi mỹ miều: Ánh trăng của khu rừng nhỏ
Nàng Sara u sầu của ta ! Gò má nàng dịu dàng nghiêng xuống vậy là nỗi ngọt ngào êm ái nhất hạ trên cánh tay ta Ngồi bên túp lều tranh, túp lều tranh mọc đầy Những đóa Nhài trắng và những đóa hải đào trắng bừng nở Để cùng gặp những biểu tượng của Tình yêu trong trắng.
THE AEOLIAS HARP,1796, SAMUEL TAYLOR COLERIDGE, 1772-1834
Phong Lữ – Geranium Phong lữ màu sẫm – u sầu Phong lữ lá sồi – Tình bạn chân thành Phong lữ đỏ hoặc hồng – Ưu ái Phong lữ đỏ tươi – An ủi, vỗ về
Phong lữ – hay có người còn gọi là Phong lữ thảo, Thiên trúc quỳ – là loại hoa được trồng trong vườn, có những bông hoa màu sắc khác nhau và đầy lôi cuốn, có lá hình thùy. Trong tiếng Anh, nó được gọi dưới tên Geranium do xuất xứ từ chữ Hy Lạp “geranos” nghĩa là con sếu, vì trái của loại cây này trông tương tự như mỏ con chim sếu, và do vậy nó còn có biệt danh là Cranesbill (mỏ sếu). Có truyền thuyết cho rằng sỡ dĩ Phong lữ chủ yếu có màu đỏ hoặc hồng, đó là vì Mohanmmed (đấng tiên tri Ả rập, người sáng lập đạo Hồi) có một lần phơi áo trên một luống hoa Cẩm quỳ. Những bông hoa liền đỏ bừng lên vì hãnh diện và không bao giờ mất đi sắc đỏ đó. Ở vùng Địa Trung Hải, loài hoa này mọc trên những bức tường đá hoặc túa ra từ những chậu bằng đất nung, và màu sắc đỏ hồng của vô số các cánh hoa này dễ tạo ra trong lòng người tâm trạng tưng bừng của những ngày lễ hội.
Hoa Súng – Water lily Tinh khiết
Trong thực vật học, hoa Súng được xếp vào bộ Nymphaeales, xuất xứ từ chữ “numpho” để chỉ những nữ thần trong thần thoại Hy Lạp, đây là những nữ thần trẻ trung, xinh đẹp sống ở sông suối, ao hồ. Người đời tin rằng ở những nơi mà các nữ thần đến chơi đùa thì đều có mọc lên những bông hoa Súng. Chính vẻ thanh tú và sắc trắng tinh khôi của loài hoa này đã đem lại ý nghĩa tượng trưng cho sụ trong sạch của tâm hồn. Ngoài ra, loài hoa này thường chỉ nở vào lúc chớm chiều ta, giống như các buổi nô đùa ngắn ngủi của các nữ thần.
Bông Súng là loài cây mọc trên nước, có hai lá mầm mọc từ phôi, phát triển thành những phiến lá rộng, phẳng, nổi trên mặt nước. Ngoài màu trắng chủ đạo, còn có nhiều loại hoa Súng có những màu sắc sặc sỡ khác nhau, tô điểm cho vẻ đẹp của những mặt hồ tĩnh lặng.
Thu Mẫu Đơn – Anemone Bơ vơ
Có cùng họ với hoa Mao hương vàng, song trái ngược với người anh em họ vui tính của minh, Thu mẫu đơn là một c’anh hoa nhỏ bé buồn rầu. Loài hoa hình ngôi sao trắng, đỏ hoặc tía này con được gọi là hoa GIó, bởi vì người Hy Lạp cổ xưa tin rằng chúng chỉ nở ra khi có gió thổi, và do vậy họ đã đặt tên loài hoa này theo tên thần gió Anemos.
Người dân thôn dã ở Anh còn gọi hoa này là Candlemascaps (mũ Candlemas) vì chúng nở ra vào ngày 2 tháng Hai trong dịp lễ Candlemass vinh danh Đức Mẹ Đồng Trinh. Những tên gọi khác của Thu mẫu đơn là Drops-of-snow (giọt tuyết), Granny’s Nightcap (mũ đêm của Bà), Chimney smock (áo choàng của ống khói), và nhất là White Wood Anemone (Thu mẫu đơn trắng trong rừng) vì thường mọc trong những khoảnh rừng cô quạnh với vẽ đẹp nổi bật của sự hoang dại rất đặc trưng.
Một thần thoại khác kể rằng: Venus yêu Adonis, con trai của vua đảo Chypre. Vì chàng, Venus quên cả núi Olympe, quên cả sắc đẹp của mình. Dưới trời nắng như thiêu hay trong mưa to gió lớn, nàng đều đi theo Adonis để săn hươu nai. Thần Chiến Tranh Acres, chồng nàng, biết chuyện, ghen tức, hóa thành một con lợn rừng, nhân lúc vắng mặt Venus, đã đâm bổ vào người chàng. Adonis chết. Venus đau khổ vô cùng. Nàng đến chân núi tìm xác người yêu. Và khi nữ thần của tình yêu và sắc đep Venus khóc thương Adonis trong rừng, những cánh hoa Thu mẫu đơn đã mọc lên ở nơi mà nước mắt của nàng nhỏ xuống trên những giọt máu của chàng.
Có lẽ đó là lý do tại sao cuối cùng, Thu mẫu đơn mang ý nghĩa của sự bơ vơ.
Ở nước ta, loài hoa này còn được gọi là Cỏ – chân ngỗng, hoặc Bạch -đầu – ông.