Ý Nghĩa Lớn Nhất Của Phong Trào Đồng Khởi / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Thanhlongicc.edu.vn

Phong Trào Đồng Khởi (1959

Chính quyền Mỹ đẩy mạnh trao quyền lực và trang bị cho tay sai Giai đoạn 1957 – 1959: Mỹ – Diệm tăng cường “tố cộng”, “diệt cộng”: Ngô Đình Diệm gây khó khăn cho cuộc sống của người dân nước ta. Vào tháng 5/1957, Chính quyền Diệm ban hành đạo luật 10/59 đẩy mạnh tàn sát khắp nơi. Nhân dân lầm than, hoạt động kinh tế trì trệ.

Tháng 1/1959: Hội nghị TW lần 15 đã quyết định: Cho phép nhân dân miền Nam sử dụng bạo lực cách mạng, khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân bằng con đường đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũ trang. Khắp nơi người dân, lực lượng quân đội nước ta đứng lên đấu tranh chống lại quân xâm lược từng bước giảm bớt sự đàn áp, chống phá. Các cuộc đấu tranh như Bắc Ái (02/1959), Trà Bồng (08/1959)…

Ngọn lửa chiến tranh sục sôi ở khớp nơi, đỉnh điểm là phong trào Đồng Khởi ở tỉnh Bến Tre. Tiếp theo các phong trào nổi ra liên tục ở huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre khiến bọn Mỹ – Diệm phải dè chừng. Sau đó lan rộng ra các tỉnh khác như Giồng Trôm, Thạnh Phú, Ba Tri,…Thời gian này, phong trào này được đánh giá cao vì khuấy động cuộc đấu tranh quyết liệt và giành được nhiều thắng lợi.

Các cuộc nổi dậy chống chính quyền tay sai của bọn xâm lược lan rộng ra khắp các tỉnh miền Tây, miền Nam và các tỉnh còn lại. Cho tới cuối năm 1960, ở nhiều nơi, quân dân ta đã giành được quyền làm chủ và đẩy lùi được bọn giặc.

Sự thành công của phong trào đã chiếm được nhiều vùng rộng lớn và thúc đẩy sự thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (20/12/1960).

Nguyên nhân phong trào Đồng Khởi Bến Tre

Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam tổ chức lần thứ 5 mở đầu cho các cuộc đấu tranh bằng vũ trang ở Miền Nam. Diễn biến phong trào Đồng Khởi vô cùng khốc liệt, quân dân ta củng cố lực lượng, nỗ lực hết sức mình để áp chế sự chống phá, tàn bạo của chính quyền Diệm.

Vào ngày 2/1/1960, các cấp lãnh đạo tỉnh Bến Tre đã tổ chức họp tại xã Tân Trung, quyết định sẽ phát động tuần lễ giải phóng lãnh thổ, các vùng đất. Phá vỡ thế kìm kẹp, chống đối, phá hoại của quân địch và giành lấy thế chủ động. Mở ra nhiều điểm đột phá lớn, chủ yếu ở cù lao Minh và Mỏ Cày.

Vào tháng 1/1960, phong trào Đồng Khởi nổi lên đúng như dự kiến ở các xã bao gồm Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh. Sau vài ngày, các xã được dân ta giải phóng hoàn toàn, người dân tự do và lại tiếp tục đứng lên chiến đấu giải phóng khu vực khác. Tiếp tục phong trào nổ ra ở Giồng Trôm, cac tỉnh trọng điểm liên tiếp nhân dân vùng lên.

Tháng 6/1960, phong trào Đồng Khởi nổi ra trên toàn lãnh thổ miền Nam. Tới 24/9/1960, lực lượng cộng sản ở Bến Tre tiến hành khởi nghĩa lan rộng sang vùng lân cận. Ở khu vực Tây Nam Bộ và Đông Nam bộ, phong trào nổi ra liên tiếp của quân dân để giành chính quyền.

Phong trào đã phá vỡ từng mảng lớn bộ máy cai trị của địch ở nhiều vùng nông thôn, trên cơ sở đó chính quyền nhân dân được thành lập.

Từ phong trào Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (20/12/1960) đại diện cho nhân dân miền Nam.

Bên cạnh đó, phong trào còn làm phá sản chiến lược chiến tranh một phía của Mỹ.

Phong trào Đồng Khởi kết thúc vào cuối năm 1960 với sự tan rã của chính quyền Việt Nam cộng hòa ở khắp mọi nơi. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời và lãnh đạo phong trào đấu tranh cho nhân dân ta vào năm 1960.

Ở toàn miền Nam thì trong số 2.627 xã đã có 1.383 xã giành được quyền tự quản. Cuối 1960, nhân dân ta đã làm chủ hơn ½ hệ thống chính quyền ở cấp cơ sở: 600/ 1298 xã Nam Bộ, 904/ 3829 thôn trung bộ, 3200/ 5721 thôn Tây Nguyên.

Sự khốc liệt của cuộc đấu, nhân dân ta quyết không nhượng bộ trước sự tàn ác của dân tay sai và Mỹ ngụy. Chính quyền Ngô Đình Diệm thất bại nặng nề trước sự tấn công liên tiếp, và bị thiệt hại nặng nề.

Số lượng người dân giành được ruộng đất thoát khỏi ách thống trị của chính quyền tay sai nhiều hơn. Sau đó Mặt trận tiến hành phân chia đều lại cho nhân dân sử dụng, kiếm sống quanh năm. Tính đến năm 1960 là cuộc cải cách điền địa này giải phóng được tầm 17 vạn hecta ruộng đất.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập, số lượng thành viên đăng ký tham gia ngày một đông hơn và cống hiến hết sức cho cuộc chiến chống bọn xâm lược. Đó là cuộc chiến không phải ngày một ngày hai mà phải vô cùng bền bỉ và chịu hy sinh nhiều. Bên cạnh những thành tựu thì hậu quả để lại cũng rất nhiều.

Vào đầu năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam được thành lập, thống nhất các đội quân du kích, quân giải phóng thành tổ chức hợp nhất. Số lượng thanh niên tham gia vào tổ chức đông hơn để góp sức đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc.

Diễn biến phong trào Đồng Khởi Bến Tre

Phong trào đã giáng một đòn vô cùng nặng nề vào chính sách thực dân kiểu mới của Mỹ, làm lung lay chính quyền Ngô Đình Diệm.

Đồng thời cũng đánh dấu bước phát triển của Cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

Từ khí thế của phong trào Đồng Khởi, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã ra đời ngày 20/12/1960.

Ý nghĩa của phong trào Đồng Khởi là gì?

Tác giả: Việt Phương

Ý Nghĩa To Lớn Của Chuông Gió Trong Phong Thủy

Người ta thường treo chuông gió ở vườn, cửa sổ, hoặc hiên nhà vừa để trang trí, mang đến những giai điệu vui tai và khắc chế nguồn năng lượng sống từ bên ngoài, luân chuyển đến khắp không gian nhà những nguồn năng lượng tốt.

Chuông gió là một vật có tác dụng kỳ diệu trong phong thủy, nó có tác dụng hóa giải hung khí và mang lại điều tốt lành.

Theo quan niệm của Phật giáo, cái gì tĩnh thì luôn biểu hiện cho sự chết chóc và những cái xấu; ngược lại những gì động, phát ra âm thanh thì biểu hiện cho sự sống và điều tốt lành. Bởi vậy, khi chuông gió reo lên có nghĩa là đang báo hiệu những điều lành. Ngoài ra, chuông gió có tác dụng hóa giải hung khí án ngữ, biến hung thành cát nên thường dùng trong nhà hoặc trong văn phòng làm việc.

Cụ thể: Với chuông gió bằng kim loại bạn nên treo ở hướng Tây, Tây Bắc và hướng Bắc; Với chuông gió chất liệu bằng tre, gỗ chọn hướng Đông, Đông Nam và hướng Nam. Còn loại chuông được làm bằng chất liệu sứ, đất sét nung,… là hiện diện của mệnh Thổ, nên chọn các vị trí trung tâm, Tây Nam, Đông Bắc, Đông và Đông Nam của ngôi nhà, phòng làm việc.

Mặt khác, phần giá treo với các hình ảnh mang tính tượng trưng bạn cũng nên lưu ý, ví dụng chuống gió bằng đất sét hoặc sứ mang hình trái tim sẽ hợp cho hướng Tây Nam (đại diện cho cung tình ái) nên được đặt trong phòng ngủ, phòng làm việc hoặc sân vườn. Còn, chiếc chuông gió với hình ảnh đức Phật sẽ phát huy tác dụng với những nguồn năng lượng phong thuỷ ở hướng Đông Bắc, tiêu biểu cho cung Học vấn.

Số lượng các thanh gắn trên chuông gió cũng là một yếu tố cần để tâm. Thường thì chuông gió được tính toán với số lượng những thanh chuông sao cho mang lại hiệu quả tốt nhất. Với loại chuông 5 thanh, 6 thanh và 8 thanh là những loại chuông phổ biến nhất để phát huy được công dụng ngăn chặn những luồng khí tiêu cực và tăng cường năng lượng có ích cho ngôi nhà.

Ngoài ra, việc treo chuông gió trong nhà cũng giống như một thiết kế để trang trang trí cho đẹp ngôi nhà của bạn đẹp hơn. Thanh Mai

Cùng Danh Mục

Một Số Đặc Trưng Của Phong Trào Tây Sơn Thế Kỷ Xviii

SOME CHARACTERISTICS OF TAY SON MOVEMENT IN THE 18th CENTURY

TRẦN THỊ THÙY DUNG (Trường Đại học Đồng Nai)

TÓM TẮT

     Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thế kỷ XVIII là thời kỳ của chiến tranh nông dân với đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà Tây Sơn, từ một phong trào ở ấp Tây Sơn đã phát triển thành phong trào quật khởi của cả dân tộc, là kết tinh của phong trào nông dân đấu tranh trong thế kỷ XVIII. Bài viết hướng đến tìm hiểu một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn, qua đó thấy được những nét đặc sắc của phong trào, đồng thời khẳng định những đóng góp của phong trào đối với sự nghiệp thống nhất và bảo vệ độc lập dân tộc của đất nước.

Từ khóa: Phong trào Tây Sơn, đặc trưng.

ABSTRACT

     In Vietnamese feudal history, the 18th century was a period of peasant war that culminated in Tay Son movement. Under the leadership of the three Tay Son brothers, the movement in Tay Son has evolved into a socialist movement of the whole nation, which is the struggle of farmers in the 18th century. The article aims to understand some characteristics of Tay Son movement, thereby seeing the characteristics of the movement, at the same time seeing certain contributions of the movement to the unification and defense of the country‘s national independence.

Keywords: Tay Son movement, characteristics.

x x x

1. Mở đầu

     Thế kỷ XVI – XVIII, đất nước bị chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài, thống nhất đất nước trở thành nhu cầu cấp thiết của toàn dân, là nguyện vọng tha thiết của nhân dân, yêu cầu khách quan của xã hội. Phong trào Tây Sơn xuất hiện năm 1771 đã từng bước giành được thắng lợi, lật đổ các chính quyền phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, non sông nước Việt sau thời gian dài bị chia cắt đã được thu về một mối. Sau khi đánh đổ chính quyền phong kiến phản động trong nước, phong trào Tây Sơn đã vươn lên làm nghĩa vụ dân tộc, chống thù trong giặc ngoài, cứu dân cứu nước – một thắng lợi vĩ đại của phong trào Tây Sơn.

2. Nội dung

     2.1. Bối cảnh lịch sử Đại Việt thế kỷ XVIII

     Thế kỷ XV chế độ phong kiến nhà Lê phát triển đến giai đoạn cực thịnh. Nhưng đến đầu thế kỷ XVI, triều đình phong kiến nhà Lê bắt đầu suy yếu, tranh chấp giữa các phe phái diễn ra quyết liệt, gây ra các cuộc nội chiến kéo dài, đời sống nhân dân ngày càng cực khổ.

     Các vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực chỉ lo ăn chơi, không lo triều chính. Nội bộ triều Lê “chia bè kéo cánh”, tranh giành quyền lực. Dưới triều Lê Uy Mục, quý tộc ngoại thích nắm hết quyền lực, giết hại công thần. Dưới triều Lê Tương Dực, tướng Trịnh Duy Sản gây bè phái, đánh giết nhau liên miên suốt hơn mười năm. Chế độ phong kiến nhà Lê dần rơi vào cảnh khủng hoảng do các vua trị vì ăn chơi sa đọa, tha hóa làm cho triều đình rối loạn. Nhân khi triều đình rối loạn, quan lại ở địa phương cậy quyền, ức hiếp dân, đời sống của các tầng lớp nhân dân lâm vào cảnh khốn cùng.

     Từ giữa thế kỷ XVIII, tình hình chính trị ở Đàng Ngoài ngày càng mất ổn định, vua Lê không còn thực quyền, mọi quyền bính đều rơi vào tay chúa Trịnh, phủ chúa quanh năm hội hè, yến tiệc, phung phí tiền của. Nhà nước trung ương không ngừng tăng cường bóc lột nhân dân, nhà nước tận thu tô thuế, họ Trịnh đánh thuế vào cả những diện tích đất “đồng chua nước mặn”, “bãi cát trắng”, đất không sản xuất được; chính sách thuế thổ sản đánh vào tất cả các nghề thủ công của nhân dân làm cho nhiều nghề thủ công bị phá sản, hoạt động công thương nghiệp bị kìm hãm. Tình trạng thiếu thuế năm này dồn sang năm khác trở thành gánh nặng khủng khiếp đối với người dân, nhiều người phải bỏ nghề, phá bỏ công cụ sản xuất để tránh nộp thuế, cuộc sống của nhân dân ngày càng khổ cực, vào những năm 40 của thế kỷ XVIII, hàng chục vạn nông dân chết đói, người sống sót phải bỏ làng quê, phiêu tán khắp nơi. Không những thế, việc mua quan bán tước ngày càng trở nên phổ biến, năm 1736 – 1740, chúa Trịnh Giang bốn lần quy định thể lệ mua quan bán tước, cho phép quan lại nộp tiền để thăng chức và nhà giàu nộp tiền để được làm quan; năm 1750, họ Trịnh đặt “tiền thông kinh”, nộp ba quan tiền thì được miễn khảo hạch và coi như trúng sinh đồ.

     Trong khi triều đình trung ương chỉ lo ăn chơi, không chăm lo đến đời sống sống nhân dân, quan lại địa phương càng ra sức đục khoét, ức hiếp, nhũng nhiễu nhân dân, cuộc sống của người dân thường xuyên bị đe dọa. Đồng thời, nạn chiếm đoạt ruộng đất trở thành hiện tượng phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Bằng nhiều hình thức và thủ đoạn, tầng lớp địa chủ đã chiếm đoạt rụông tư của nông dân, mặt khác xâm lấn vào ruộng đất công của làng xã. Phần lớn ruộng công làng xã – niềm tin của nông dân công xã đã bị nhà nước cắt xén để ban cấp cho quan lại và quân lính. Kết quả là phần ruộng cho nông dân ngày càng ít, hàng loạt nông dân bị gạt ra khỏi ruộng đất hoặc cố bám lấy mảnh ruộng “chết đói” để gắng gượng một cuộc sống cơ cực.

     Bên cạnh đó, thiên tai, vỡ đê, hạn hán xảy ra liên miên; các năm 1678, 1681, 1684, 1687… là những năm hạn hán, mất mùa lớn. Đặc biệt, nạn đói khủng khiếp năm 1740 – 1741 ở Đàng Ngoài “dân phiêu tán dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, một trăm đồng tiền không được một bữa no, nhân dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, đến nổi ăn cả thịt rắn, thịt chuột, chết đói chồng chất lên nhau; số dân còn lại mười phần không được một. Làng nào vốn có tiếng trù mật cũng chỉ còn lại độ năm ba hộ mà thôi” [1, tr. 852], cuộc sống của người dân rơi vào cảnh cùng khốn.

     Nếu như chính sách của chế độ quân chủ tập quyền Đàng Ngoài thời kỳ này đã đẩy mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa nhân dân với nhà nước phong kiến trở nên gay gắt, làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa, thì đến nửa cuối thế kỷ XVIII, ở Đàng Trong, những mâu thuẫn cố hữu của chế độ phong kiến cũng đã đẩy xã hội Đàng Trong lâm vào cuộc khủng hoảng.

     Chúa Nguyễn Phúc Khoát sau khi xưng vương, tạo lập triều đình riêng, cho xây dựng cung điện theo quy mô của một đế đô. Không chỉ riêng các chúa Nguyễn mà tất cả quan lại, quý tộc Đàng Trong đều đua nhau ăn chơi, hưởng lạc đến cực độ, trong đó nổi bật là Trương Phúc Loan, ông nắm hết quyền hành, khét tiếng tham nhũng, vàng, bạc, châu, ngọc, lụa chất “thành núi”, ruộng vườn, nhà cửa, trâu ngựa không đếm xuể. Chính sách thuế khóa của chính quyền họ Nguyễn cũng hết sức nặng nề, phức tạp “hàng trăm thứ thuế, mà trưng thu thì phiền phức, gian lận, nhân dân khốn khổ về nỗi một cổ hai tròng” [2, tr. 413], thuế thổ sản có hàng trăm ngàn thứ, nhà nước cần gì thì đặt ra thứ thuế ấy để thu. Hệ thống quan thu thuế “bản đường quan” đông đảo, luôn tìm cách hạch sách, nhũng nhiễu nhân dân. Quan trường trở thành nơi làm giàu của bọn quan lại, do vậy nạn mua bán quan tước diễn ra rất phổ biến.

     Về kinh tế, trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh và sau đó là giai đoạn đất nước bị chia cắt, kinh tế Đàng Trong có sự phát triển hơn Đàng Ngoài. Thế nhưng, bước sang thế kỷ XVIII, kinh tế Đàng Trong bắt đầu có những dấu hiệu suy thoái trên các lĩnh vực: ngoại thương sa sút, các đô thị như Thanh Hà, Hội An dần dần lụi tàn; khi ngoại thương suy giảm, “nạn tiền hoang” gây ra tình tạng rối loạn nội tệ, dẫn đến tình trạng đầu cơ tích trữ, làm ngưng trệ mọi hoạt động lưu thông; phần lớn ruộng đất đều tập trung trong tay giai cấp địa chủ giàu có, giai cấp nông dân cực khổ, mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên sâu sắc. Hơn nữa, đói kém xảy ra, đặc biệt năm 1774, Thuận Hóa bị đói lớn, dân bị chết đói rất nhiều, xác chết chồng chất lên nhau. Trước tình hình đó, người nông dân đã nổi dậy đấu tranh, mở đầu là cuộc khởi nghĩa của chàng Lía ở Quy Nhơn, sau đó là phong trào Tây Sơn – phong trào làm rung chuyển cả đất nước.

     Như vậy, thế kỷ XVIII chế độ phong kiến Đàng Ngoài và Đàng Trong bước vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, giai cấp địa chủ chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, chính sách thuế khóa nặng nề và những thủ đoạn bóc lột tàn bạo của nhà nước phong kiến đã đẩy người nông dân vào cuộc sống bần cùng nghèo khổ, nhiều người phải phiêu bạt, lưu tán. Bên cạnh đó, hạn hán, đói kém xảy ra, đời sống nhân dân ngày càng cơ cực, tất cả những điều đó đã đẩy mâu thuẫn kinh tế xã hội ở nước ta lên đỉnh điểm và là nguyên nhân dẫn tới sự bùng nổ của phong trào nông dân khởi nghĩa.

     2.2. Sơ lược về phong trào Tây Sơn

     Năm 1786, với danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh” phong trào Tây Sơn chuyển mục tiêu đấu tranh ra phía Bắc, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo đã đánh đổ hoàn toàn nền thống trị của họ Trịnh. Sau đó, bằng những cuộc tiến công ra Bắc năm 1787 – 1788, quân Tây Sơn lật đổ sự thống trị của vua Lê, chế độ vua Lê chúa Trịnh thống trị ở Bắc hà bị sụp đổ.

     Sau khi đánh đổ các chính quyền phong kiến phản động trong nước, phong trào Tây Sơn đã vươn lên làm nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Với chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, Quang Trung đã đánh tan đội quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, bảo vệ độc lập dân tộc.

     Phong trào Tây Sơn là một trong những phong trào nông dân tiêu biểu trong thời phong kiến Việt Nam. Phong trào đã lần lượt đánh đổ ba chính quyền phong kiến, phá tan hai cuộc xâm lược và can thiệp của ngoại bang, xóa bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài, thực hiện công cuộc thống nhất đất nước, để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử nước nhà.

     2.3. Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII

     2.3.1. Sự phát triển về quy mô và kết hợp vấn đề giai cấp – dân tộc

     Tây Sơn là vùng đất thuộc phủ Quy Nhơn, dinh Quảng Nam – là khu vực trù phú nhưng cũng là vùng chịu tô thuế hà khắc thời bởi các chính sách áp bức của các chúa Nguyễn. Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lên vùng Tây Sơn thượng đạo (nay thuộc An Khê, Gia Lai) lập căn cứ, dựng cờ khởi nghĩa chống chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong.

     “… Giận Quốc phó ra lòng bội bạc nên Tây Sơn xướng nghĩa Cần Vương;

     Trước là ngăn cột đá giữa dòng kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé, Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kéo cùng dân ra chốn lầm than…”

     Ngoài ra, Tây Sơn còn tập hợp được đông đảo nông dân trong vai trò chủ lực của nghĩa quân qua khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo” – quyền lợi kinh tế gắn liền với nông dân. Điều đó được các giáo sĩ Tây Ban Nha, điển hình là Diego de Jumilla ghi lại, sách Les Espagnols dans l’Empire d’Annam trích dẫn như sau: “Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi… Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ..” [4, tr. 33].

     Năm 1776, Nguyễn Lữ đem quân đánh vào Gia Định, quân chúa Nguyễn phải bỏ thành Gia Định, chạy lên Trấn Biên. Năm 1777, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ tiến quân vào Gia Định lần thứ hai, quân Tây Sơn đánh bại và bắt giết chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát, chấm dứt sự thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Năm 1786, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc, lật đổ tập đoàn chúa Trịnh, trao trả quyền lực cho vua Lê Hiển Tông. Vua Lê phong Nguyễn Huệ làm Uy quốc công và gả công chúa Ngọc Hân cho ông, cắt đất Nghệ An nhường cho Tây Sơn. Sau khi Tây Sơn trở vào Nam, tình hình Bắc hà trở nên rối loạn, Nguyễn Hữu Chỉnh lộng quyền, Nguyễn Huệ cử Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân cùng Vũ Văn Nhậm diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, còn vua Lê (Lê Chiêu Thống) chạy lên Kinh Bắc, rồi chạy sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh, sự nghiệp thống trị của nhà Lê đến đây chấm dứt.

     Tóm lại, từ một phong trào nổ ra ở địa phương, sau 18 năm phong trào Tây Sơn đã phát triển mạnh mẽ ra phạm vi cả nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và đạt được nhiều thắng lợi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một phong trào nông dân phát triển rộng lớn, kéo dài với quy mô ngày càng mở rộng, lực lượng tham gia đông đảo về thành phần và số lượng. Phong trào không những đã đánh đổ cả ba chính quyền phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, chấm dứt tình trạng chia cắt đất nước mà còn đánh bại giặc ngoại xâm Xiêm, Thanh, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

     Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, phong trào nông dân Tây Sơn là phong trào duy nhất có sự kết hợp giữa việc giải quyết vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, đó chính là sự chuyển biến về tính chất của phong trào so với các phong trào nông dân khác.

     Sự chuyển biến về tính chất được thực hiện từ lúc nghĩa quân Tây Sơn lật đổ sự thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nguyễn Ánh chạy thoát, cầu viện quân Xiêm với âm mưu khôi phục chế độ phong kiến phản động. Với chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, một mặt làm thất bại âm mưu xâm lược của quân Xiêm, mặt khác đưa phong trào Tây Sơn phát triển lên một tầm cao mới, làm chủ toàn bộ Đàng Trong, tạo điều kiện tiến ra Đàng Ngoài, lật đổ chính quyền thống trị Lê – Trịnh.

     Lần thứ hai, lòng yêu nước được thăng hoa, trở thành đỉnh cao, là biểu tượng cho thời đại Tây Sơn khi nhân dân ta tập trung sức người, sức của chống quân xâm lược Mãn Thanh. Với chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa vào Tết Kỷ Dậu 1789, giải phóng Thăng Long, hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập và thống nhất nước nhà.

     Sự chuyển biến về quy mô và tính chất là một nét đặc sắc của phong trào nông dân Tây Sơn trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Từ căn cứ Tây Sơn thượng đạo, phong trào Tây Sơn đã phát triển lớn mạnh, trở thành một phong trào quật khởi của cả dân tộc. Phong trào Tây Sơn ban đầu có tính chất địa phương, sau trở thành trung tâm thu hút mạnh mẽ quần chúng nhân dân tham gia và phát triển thành phong trào có phạm vi hoạt động rộng lớn trên phạm vi cả nước, có sự kết hợp giữa việc giải quyết vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc.

     2.3.2. Gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc

     Nét nổi bật của phong trào Tây Sơn không chỉ là sự kết hợp giữa việc giải quyết vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, mà còn là cuộc tranh đấu nhằm giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

     Năm 1788, vua Càn Long nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân, huy động từ Lưỡng Quảng, Vân Nam và Quý Châu với danh nghĩa phù Lê, vào chiếm đóng Thăng Long. Nhận tin cấp báo, tháng 12 năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung để quy tụ lòng dân, lập tức tiến quân ra Bắc. Đến Nghệ An, Quang Trung tuyển thêm quân, củng cố lực lượng, mở cuộc duyệt binh lớn ở Vĩnh Doanh. Ngày 20 tháng 12 năm Mậu Thân (15 tháng 1 năm 1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp, Biện Sơn. Kế hoạch tác chiến được đề ra, toàn quân chia thành năm đạo với các nhiệm vụ khác nhau. Quang Trung quyết định mở tiệc khao quân ăn tết trước, hẹn đến ngày mùng 7 vào Thăng Long mừng chiến thắng. Đêm giao thừa, Quang Trung đọc vang lời hịch:

Đánh cho để dài tóc,

Đánh cho để đen răng,

Đánh cho chúng chích luân bất phản,

Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn,

Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ

     Chỉ với 5 dòng thơ, 35 chữ, lời hịch thể hiện rõ mục đích của cuộc tiến quân là để bảo vệ các truyền thống văn hóa dân tộc như các tục để tóc dài, nhuộm răng đen; quyết tâm đánh giặc đến cùng (đánh cho kẻ xâm lược không kịp trở tay, không còn mảnh giáp) và khẳng định chủ quyền quốc gia của người Việt Nam “đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”. Bài Hịch xuất quân không những biểu hiện ý chí quyết tâm đánh giặc của quân và dân ta mà còn đánh để bảo vệ phong tục, tập quán riêng của dân tộc đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng, đánh để khẳng định ta không bị đồng hóa sau hơn 1000 bị phương Bắc đô hộ.

     Sau khi đánh bại 29 vạn quân Thanh xâm lược (1789), vương triều Quang Trung ra sức xây dựng một chính quyền phong kiến mới, tiến bộ với ý thức quản lý đất nước trên một phạm vi rộng lớn dưới một chính quyền trung ương tập trung mạnh. Trong đó, Quang Trung rất chú trọng đến phát triển giáo dục và trọng dụng chữ Nôm. Đối với những nho sĩ, trí thức, kể cả quan lại trong chính quyền cũ nhưng có tài năng, trí tuệ, có nhiệt tình xây dựng đất nước, Quang Trung với tư tưởng “cầu hiền tài”, cố gắng thuyết phục và sử dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt họ ở những chức vụ cao tương xứng với tài năng của họ. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp… là những học giả tiêu biểu trong số các nho sĩ này.

     Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại mới, bên cạnh phương thức “tiến cử”, “cầu hiền tài” Quang Trung đã ban hành chính sách “khuyến học”, mở rộng chế độ học tập, thi cử. Trường học được mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học từ chương khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải thi lại. Người nào xếp loại ưu thì mới được công nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học lại, còn những người bỏ tiền ra mua tước quan (thời Lê – Trịnh) đều bị đuổi về chịu lao dịch như dân chúng.

     Bên cạnh đó, dưới vương triều Tây Sơn, Quang Trung rất trọng dụng chữ Nôm. Ông lập Sùng Chính Viện chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm làm tài liệu học tập và giúp vua về mặt văn hóa. Mục đích của Quang Trung là nhằm đưa chữ Nôm lên thành quốc ngữ chính thức thay cho chữ Hán. Chữ Nôm được đưa vào khoa cử, trong các kỳ thi quan trường phải ra đề thi bằng chữ Nôm, người thi đến kỳ tam trường phải làm thơ, phú bằng văn Nôm. Chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Quang Trung, một thành quả quan trọng trong lịch sử đấu tranh và bảo tồn nền văn hóa dân tộc, chống chính sách đồng hóa của các triều đại phương Bắc.

     Có thể nói việc trọng dụng chữ Nôm và mở rộng hệ thống trường học có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển nền văn hóa dân tộc, biểu lộ tinh thần quốc gia, bảo tồn nền văn hóa dân tộc. Việc sử dụng chữ Nôm làm văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Tây Sơn là một thành quả quan trọng trong lịch sử đấu tranh, gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Không những thế, chữ Nôm còn phát triển thành một trào lưu văn hóa rộng lớn, xuất hiện nhiều nhà văn, nhà thơ Nôm xuất sắc như: Ngọc Hân công chúa với “Ai tư vãn”; Phan Huy Ích với “Văn tế Quang Trung” và không thể không kể tới Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương.

     Những chính sách về văn hóa của Quang Trung thể hiện tư tưởng tiến bộ nhằm đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau thời gian chiến tranh kéo dài, đất nước bị chia cắt, vươn lên sánh vai cùng các quốc gia phát triển đương thời. Đồng thời, những chính sách đó chứng tỏ ông có hoài bão xây dựng một nền học thuật, giáo dục đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân dân. Đây là một nét nổi bật thể hiện tầm nhìn chiến lược của Quang Trung nói riêng và của vương triều Tây Sơn nói chung.

     2.3.3. Đoàn kết và chia rẽ trong nội bộ của phong trào

     Sự đoàn kết của ba anh em nhà Tây Sơn và đông đảo quần chúng nhân dân tạo nên sức mạnh, giúp phong trào vượt qua những khó khăn buổi đầu, ngày càng phát triển về lực lượng và mở rộng phạm vi hoạt động.

     Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo phong trào, tình hình nội bộ Tây Sơn cũng có nhiều bất ổn. Nội bộ lục đục, mâu thuẫn nảy sinh từ sau khi Nguyễn Huệ từ Bắc hà trở về, gây ra những tổn thất to lớn đối với sự thống nhất lực lượng của phong trào Tây Sơn và sự phát triển của vương triều Tây Sơn sau này.

     Sử sách không ghi chép thật rõ ràng về nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh em Tây Sơn. Nhưng xích mích, mâu thuẫn giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ là có thật, thậm chí 2 người đã sử dụng đến quân sự “dùng binh lực đánh lẫn nhau” [1, tr. 979], “Trước kia, Văn Huệ và Văn Nhạc dấy quân đánh nhau” [1, tr. 979]. Nguyên nhân của sự bất hòa này có lẽ bắt đầu từ lúc Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc hà, bởi vì chủ trương của Nguyễn Nhạc là tập trung tiêu diệt chúa Nguyễn, giữ hòa bình với Bắc Hà, nên việc Nguyễn Huệ tự ý đem quân Bắc tiến là đi ngược lại ý của Nguyễn Nhạc. Mặt khác, Nguyễn Nhạc không yên tâm với sự phát triển thế lực riêng của Nguyễn Huệ, sợ rằng Nguyễn Huệ sẽ vượt quyền mình, sợ rằng không kiềm chế được Nguyễn Huệ “quyền làm vua đối với bề tôi đã bị xem khinh” [6], “sau khi Văn Huệ đã lấy được Thuận Hóa, đưa thư về nói tiến thẳng quân ra để lấy Thăng Long. Văn Nhạc được nhận thư, không bằng lòng, sai người ngăn lại, nhưng không kịp. Đến lúc Văn Huệ đã lấy được Thăng Long. Văn Nhạc biết tin sợ lắm. Nhạc cho là vội vàng đem quân vào sâu như thế tất nhiên khó giữ được lâu. Hơn nữa Văn Nhạc nhận thấy Văn Huệ vốn là người giảo hoạt, hung tợn, nếu đắc chí, tất nhiên sẽ giữ lấy một nước để tự lo toan, rồi dần dà khó mà kiềm chế được” [1, tr. 969 – 970]. Mâu thuẫn giữa hai anh em Tây Sơn lớn tới mức hai bên đánh nhau kịch liệt: “Ông Huệ truy kích. Ông Nhạc rút quân vào thành Quy Nhơn, cố thủ. Ông Huệ công vi cả tháng mà không hạ nổi thành, bèn đánh chiếm núi Long Cốt, rồi kê súng đại bác trên núi bắn vào thành. Những nơi hiểm yếu trong thành bị phá” [6].

     Mâu thuẫn và bất hòa của hai anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ làm cho hòa khí trong nội bộ Tây Sơn bị ảnh hưởng, tình cảm anh em rạn nứt, lực lượng Tây Sơn bị phân hóa: Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương, cai quản vùng đất Gia Định, Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Bắc. Một trong những đóng góp của phong trào Tây Sơn là xóa bỏ tình trạng chia cắt, thống nhất đất nước. Nhưng nay, khi phong trào giành được thắng lợi, đất nước lại bị chia làm ba chính quyền khác nhau, tiếp tục đi vào con đường phong kiến hóa.

     Hậu quả tai hại nhất của việc bất hòa giữa anh em Tây Sơn là bị kẻ địch từ hai phía tận dụng. Sau ba năm lưu vong ở Xiêm, Nguyễn Ánh nhận ra cơ hội trở về nước vào tháng 8 năm 1787 và đã tập hợp lực lượng. Nguyễn Lữ nghe tin Nguyễn Ánh trở về, vội vã tránh đi nơi khác để Gia Định cho Phạm Văn Tham giữ. Nhận thấy quân Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, Nguyễn Lữ sợ hãi mang quân rút chạy về Quy Nhơn, quân Tây Sơn đã mỏng lại càng mỏng. Phạm Văn Tham vẫn cố đơn độc chiến đấu. Thế cùng sức kiệt, đầu năm 1789 Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây chặt, lại bịt đường ra biển về Quy Nhơn nên buộc phải đầu hàng. Nguyễn Ánh dẹp yên đất Gia Định.

     Ở Bắc Hà, tình hình rối loạn, từ Nguyễn Hữu Chỉnh đến Vũ Văn Nhậm đều chuyên quyền, có ý chống lại vương triều Tây Sơn. Quang Trung đem quân ra Bắc tiêu diệt Chỉnh, Nhậm, tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Ngậm, Phan Huy Ích ra đảm đương công việc, Nguyễn Huệ rút quân về Phú Xuân. Sau khi ổn định tình hình Bắc hà, Quang Trung tích cực chuẩn bị lực lượng đem quân vào Nam đánh Gia Định, nhưng năm 1792 ông qua đời, con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Sự ra đi của Quang Trung làm cho nội bộ hàng ngũ tướng lĩnh Tây Sơn ngày càng rạn nứt nghiêm trọng, Trần Quang Diệu bất hòa với Vũ Văn Dũng, Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở, các đại thần giết hại lẫn nhau. Quang Toản nghi ngờ giết hại nhiều triều thần, võ tướng, khiến cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều người sang hàng Nguyễn Ánh. Nhân cơ hội nội bộ Tây Sơn suy yếu, Nguyễn Ánh tiến hành những cuộc phản công: năm 1801, Nguyễn Ánh đánh thẳng ra Phú Xuân, Quang Toản phải chạy ra Bắc hà; năm 1802, Nguyễn Ánh huy động nhiều cánh quân thủy – bộ tiến ra Bắc, lần lượt chiếm vùng đất từ Quảng Trị đến Nam Định rồi tiến thẳng về Thăng Long. Quang Toản không cự chống nổi, vượt sông Nhị chạy lên mạn Bắc Giang và bị bắt, chấm dứt vương triều Tây Sơn.

     Sự bất hòa trong nội bộ anh em Nguyễn Huệ và trong tướng lĩnh Tây Sơn cùng sự bất lực của Nguyễn Lữ đã tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh trở lại Gia Định. Mặt khác, cái chết đột ngột của Nguyễn Huệ là một tổn thất lớn đối với phong trào Tây Sơn, là cơ hội để Nguyễn Ánh khôi phục quyền lực nhà Nguyễn.

     Đoàn kết tạo nên sức mạnh, mất đoàn kết làm cho nội bộ chia rẽ. Buổi đầu, phong trào Tây Sơn có được sức mạnh của đoàn kết, sức mạnh giúp họ từ căn cứ Tây Sơn phát triển rộng ra quy mô cả nước, đưa cuộc phong trào nông dân Tây Sơn lên những tầm cao mới, giành những thắng lợi mới. Nhưng sự chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ Tây Sơn đã tạo điều kiện cho Nguyễn Ánh trở về, chiếm lại vùng đất Gia Định và lật đổ vương triều Tây Sơn, thành lập triều Nguyễn.

3. Kết luận

     Phong trào Tây Sơn mang những nét đặc trưng riêng, được đánh giá là một trong những phong trào nông dân tiêu biểu và điển hình của phong trào nông dân trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Nhờ tinh thần đoàn kết, phong trào liên tiếp giành được những thắng lợi lớn, không ngừng phát triển về quy mô, giải quyết tốt vấn đề giai cấp – dân tộc. Thành quả lớn nhất của phong trào Tây Sơn là không những tiêu diệt các chính quyền phong kiến phản động Lê – Trịnh – Nguyễn, xóa bỏ tình trạng chia cắt đất nước mà đã vượt ra khỏi phạm trù đấu tranh giai cấp, vươn lên đảm nhiệm vai trò chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, việc giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống văn hóa của dân tộc luôn là mục tiêu của Tây Sơn dù là đang chiến đấu cho sự nghiệp thống nhất tổ quốc hay ở thời kỳ hòa bình xây dựng, củng cố độc lập nền dân tộc. Những chính sách tiến bộ và hợp thời của Quang Trung và vương triều Tây Sơn giúp Đại Việt có những bước chuyển mình sau hơn hai thập kỷ bị chia cắt và bước đầu đạt được một số thành tựu trên các lĩnh vực. Mặc dù không thể giành được thắng lợi cuối cùng, không giữ được thành quả đấu tranh do sự chia rẽ, mất đoàn kết giữa anh em Nguyễn Huệ và các quan lại, nhưng những đóng góp của phong trào nông dân Tây Sơn là không thể phủ nhận và Tây Sơn – Nguyễn Huệ mãi là niềm tự hào của mỗi người dân Việt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn (bản điện tử) (2001), Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

2. Trương Hữu Quýnh (2003), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3. Nguyễn Phan Quang (2000), Phong trào Tây Sơn và cải cách Quang Trung, Giáo trình lưu hành nội bộ.

4. Nguyễn Lương Bích, Phạm Ngọc Phụng (1976), Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

5. Ty Văn hóa – Thông tin Nghĩa Bình (1978), Tây Sơn Nguyễn Huệ, Kỷ yếu hội nghị nghiên cứu phong trào nông dân Tây Sơn.

6. Quách Tấn – Quách Giao (2004), Nhà Tây Sơn, https://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n1nmnmn4n31n343tq83a 3q3m3237nvn, (6/9/2018).

Nguồn: Tạp chí Khoa học – Đại học Đồng Nai, số 12 – 2019

Thánh Địa Việt Nam Học (https://thanhdiavietnamhoc.com)

Ý Nghĩa Của Hoa Phong Lan.

Là một loài hoa có nguồn gốc từ thiên nhiên, một trong những biểu tượng của nét đẹp vương giả, tinh tế và hiếm thấy nên hoa phong lan ngày nay được rất nhiều người ưa chuộng. Nét đẹp quyến rũ cộng thêm một chút kiêu sa, huyền bí làm cho người ta không khỏi tò mò, thích thú và phong cho một tước danh cao sang như vẻ đẹp vốn có của nó ” nữ hoàng các loài hoa”. Và với những người yêu thích vẻ đẹp đặc biệt của loài hoa này thì không chỉ thể hiện vẻ đẹp, phong lan còn có những ý nghĩa riêng của nó.

Với ước tính, hiện nay có khoảng 25.000 loại phong lan có trong tự nhiên, và mỗi năm lại có thêm những loài lan mới được phát hiện. Phong lan được xếp vào các họ thực vật có hoa lớn nhất. Có thể nói đây là loài hoa khó trồng, chỉ có thể phát triển mạnh nhất ở những vùng có khí hậu nhiệt đới với điều kiện chăm sóc đặc biệt.

Đầu tiên có thể kể đến ý nghĩa lịch sử của nó thể hiện sự giàu có, tình yêu cũng như vẻ đẹp. Với người Hy Lạp cổ đại thì hoa phong lan có ý nghĩa vinh danh những anh hùng xông pha chiến trận.

Sau đó sự gia tăng của những bộ sưu tập hoa phong lan ở Anh thì ý nghĩa của lan chuyển dần sang sự sang trọng. Và đây cũng là một trong những phương thuốc chữa cũng như phòng bệnh vô cùng hữu hiệu, giúp con người tránh khỏi những bệnh tật. Với những người Aztec thì dùng hỗn hợp hoa phong lan với chocolate để cung cấp thêm sức mạnh cũng như quyền lực.

Hoa lan còn có ý nghĩa làm đẹp cho ngôi nhà, sự quyến rũ của hoa lan theo phong cách riêng mà không phải loài hoa nào cũng có được. Trong số tất cả những loài hoa thì hoa phong lan đặc biệt chiếm một vị trí vô cùng quan trọng. Điều này thể hiện rõ nhất khi hoa lan là một sự lựa chọn đặc biệt khi bạn muốn thể hiện tình cảm với những người thân yêu trong cuộc sống với nét đẹp cao sang cũng như quyến rũ nhất của loài hoa này

Những loại phong lan khác nhau thì lại có những ý nghĩa riêng biệt, với những loại hoa tặng bạn bè, người thân hay chúc mừng lứa đôi điều có những loại hoa tương ứng. Có thể nói ngoài nét đẹp cuốn hút thì hoa phong lan còn có những ý nghĩa riêng, lan mang cho mình một biểu tượng riêng, đặc biệt sang trọng và đầy cuốn hút.