Ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài

Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn ý Nghĩa Phương Pháp Luận Vận Dụng Ppl Trong Công Tác, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Về Vật Chất, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài Ctxh Hỗ Trợ Tâm Lý Cho Trẻ Em Mồ Coi, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Thực Tiễn, ý Nghĩa Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luân Và Thực Tiễn Của Đề Tài Công Tác Văn Phong, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Cương Lĩnh, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Mà Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, ý Nghĩa Thực Tiễn Của Chủ Nghĩa Mác Lênin, Luật Nghĩa Vụ Và Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ-bản án Và Bình Luận Bản án, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Của Chủ Nghĩa Mác, Lý Luận Của Chủ Nghĩa Mác Về Tiền Tệ, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Chủ Nghĩa Mác, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn Sau Đây Là Đầy Đủ Và Chính Xác Nhất, ý Nghĩa Thực Tiễn Quân Đội Trong Tình Hình Hiện Nay, Tiểu Luận Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Tiểu Luận Sự Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Là Câu Nói Của Ai, Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn, Lý Luận Đi Đôi Với Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Gắn Với Thực Tiễn, Lý Luận Là Gì Thực Tiễn Là Gì, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Và Thực Tiễn Công Tác Lưu Trữ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Dạy Học, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv9, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Thực Tiễn Sau 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Phải Đi Đôi Với Thực Tiễn, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv4, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Năm Đổi Mới, Lý Luận Gắn Liền Với Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Chỉ Thị Của Ban Bí Thư Về Tổng Kết Một Số Chuyên Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Đổi Mới, Thủ Tục Hành Chính Lý Luận Và Thực Tiễn, Báo Cáo Tiến Độ Thực Hiện Luận Văn Thạc Sĩ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Giáo Dục, Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Mối Liên Hệ Giwuax Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Triết Học, Dự Thảo Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Báo Cáo Tiến Độ Thực Hiện Luận Văn Của Học Viên, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Công Việc, Luận án Tiến Sĩ Công Nghệ Thực Phẩm, Diễn Biến Hòa Bình Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn Và Sự Vận Dụng Quan Điểm Đó Vào Quá Trình Đổi Mới ở Việt Nam, Quy Trình Ban Hành Luật, Pháp Lệnh Lý Luận Và Thực Tiễn, Hãy Phân Tích Thực Tiễn Và Vai Trò Của Thực Tiễn Đối Với Nhận Thức, Trên Cơ Sở Lý Luận Thực Tiễn Về Phát Huy Dân Chủ, Giữ Nghiêm Kỷ Luật, Phấn Đấu Xứng Danh Bộ Đội Cụ H, Trên Cơ Sở Lý Luận Thực Tiễn Về Phát Huy Dân Chủ, Giữ Nghiêm Kỷ Luật, Phấn Đấu Xứng Danh Bộ Đội Cụ H, Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Của Việt Nam Về ưu Đãi Đầu Tư Với Thực Tiễn ở Tỉnh Quảng Bình, Sự Vận Dụng Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đcsvn Trong Thời Kì Đổi Mới., ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Phương Thức Sản Xuất, Báo Cáo Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến Ngành Giáo Dục, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Định Nghĩa Vật Chất Của Lênin, Bài Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Công An Nhân Dân, Bài Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến Trong Công An Nhân Dân, Lý Luận Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền Và ý Nghĩa Trong Việc Hình Thành Cộng Đồng Asean, Bài Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Về Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Tại Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Cá Nhân Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Cá Nhân, Bài Tham Luận Tại Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Về Gương Điển Hình Tiên Tiến, Mẫu Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Tham Luận Tại Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Cá Nhân, Bài Tham Luận Báo Cáo Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến 5 Năm, Bài Tham Luận Về Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Tập Thể, Mẫu Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến, Tiểu Luận Xây Dựng Nền Văn Hóa Việt Nam Tiên Tiến Đậm Đà Bản Sắc Dân Tộc, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến, Luật Nghĩa Vụ Dân Sự Và Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ Dân Sự, Tiểu Luận Về Các Kỹ Năng Lãnh Đạo Cần Thiết Của Cấp Phòng Và Thực Tiễn Lãnh Đạo Cấp Phòng ở Cơ Quan, Định Nghĩa Về Tiền, Định Nghĩa Tiền, ý Nghĩa Báo Cáo Lưu Chuyển Tiền Tệ, Định Nghĩa Rửa Tiền, ý Nghĩa Học Thuyết Tiến Hóa, Định Nghĩa ưu Tiên, 8 Định Nghĩa Về Tiền, ý Nghĩa Văn Bản Bài Học Đường Đời Đầu Tiên, Định Nghĩa Tiên Đề ơclit,

Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn ý Nghĩa Phương Pháp Luận Vận Dụng Ppl Trong Công Tác, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Về Vật Chất, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài Ctxh Hỗ Trợ Tâm Lý Cho Trẻ Em Mồ Coi, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Thực Tiễn, ý Nghĩa Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luân Và Thực Tiễn Của Đề Tài Công Tác Văn Phong, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Cương Lĩnh, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Mà Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, ý Nghĩa Thực Tiễn Của Chủ Nghĩa Mác Lênin, Luật Nghĩa Vụ Và Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ-bản án Và Bình Luận Bản án, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Của Chủ Nghĩa Mác, Lý Luận Của Chủ Nghĩa Mác Về Tiền Tệ, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Chủ Nghĩa Mác, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn Sau Đây Là Đầy Đủ Và Chính Xác Nhất, ý Nghĩa Thực Tiễn Quân Đội Trong Tình Hình Hiện Nay, Tiểu Luận Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Tiểu Luận Sự Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Là Câu Nói Của Ai, Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn, Lý Luận Đi Đôi Với Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Gắn Với Thực Tiễn, Lý Luận Là Gì Thực Tiễn Là Gì, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Và Thực Tiễn Công Tác Lưu Trữ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Dạy Học, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv9, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Thực Tiễn Sau 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Phải Đi Đôi Với Thực Tiễn, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv4, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Năm Đổi Mới, Lý Luận Gắn Liền Với Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Chỉ Thị Của Ban Bí Thư Về Tổng Kết Một Số Chuyên Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Đổi Mới, Thủ Tục Hành Chính Lý Luận Và Thực Tiễn, Báo Cáo Tiến Độ Thực Hiện Luận Văn Thạc Sĩ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Giáo Dục, Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Mối Liên Hệ Giwuax Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Triết Học,

Lý Luận Và Thực Tiễn. Triết Học Mác

1. Lý luận

Khái niệm, từ ngữ lý luận thường được hiểu với nhiều nội dung và ý nghĩa khác nhau. Người ta thường hiểu lý luận là những học thuyết, quan điểm với tư cách là cái kết quả mà quá trình nhận thức đạt được. Chẳng hạn, những hệ thống lý thuyết, quan niệm được trình bày trong các tài liệu, báo cáo khoa học, sách giáo khoa v.v. Nhưng lý luận còn được hiểu là một quá trình nhận thức. Trong trường hợp này, lý luận có nghĩa là hoạt động lý luận và hoạt động ấy bao gồm cả những quả trình nội tại và những điều kiện bên ngoài của hoạt động. Tuỳ theo những yêu cầu cụ thể mà người ta nêu lên, hoặc quan tâm đến mặt này hay mặt khác của lý luận. Ở đây chúng ta nói về lý luận với tư cách là hoạt động nhận thức lý luận (hoạt động lý luận).

Theo Lênin: “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất’ yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, tự nó và vì nó”. Luận điểm đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của lý luận cả về quá trình và kết quả của nó. Lý luận phải hướng đến, nắm được cái bên trong, tất yếu, nhũng quan hệ toàn diện và mâu thuẫn của khách thể, đồng thời phải “trình bày”, thể hiện được những cái đã nắm được ấy dưới hình thức những quan điếm hoặc hệ thống lý luận. Từ luận điểm của Lênin, cũng như từ việc xem xét những hình thức quan niệm, hoạt động lý luận khác nhau, có thể xác định bản chất (định nghĩa) lý luận như sau: Lý luận là nhận thức cái bên trong, tất yếu của đối tượng và biểu hiện nhận thức ấy dưới hình thức các khái niệm, phạm trù, quy luật.

Từ bản chất của lý luận và từ việc xem xét những hình thức, biểu hiện khác nhau của hoạt động lý luận, có thể chỉ ra và phân tích nhũng đặc trưng và tính chất của nó như sau.

Về nội dung phản ánh: Lý luận phản ánh cái bên trong, cái tất yếu của đối tượng. Cái bên trong, tất yếu này có thể là cái chung, cái bản chất, cái căn bản, cái quy luật của đối tượng, lý luận có thể phản ánh cái bên trong, cái tất yếu của sự vật trong tính chỉnh thể, toàn vẹn của nó, nhưng cũng có thể chỉ phản ánh cái bên trong, tất yếu của từng mặt nào đó của đối tượng.

Về hình thức phản ánh: Lý luận biểu hiện, “trình bày” đối tượng trong hình thức những khái niệm, phạm trù, quy luật hoặc hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật.

Lý luận có tính chất trừu tượng hoá, khái quát hoá, tổng họp và những tính chât này hình thành trên cơ sở của phân tích, so sánh. Tính chất này thể hiện không chỉ trong quá trình hoạt động, mà cả trong kết quả của hoạt động lý luận và nó thể hiện rõ ở việc chủ thể sử dụng những công cụ là các phạm trù, khái niệm, quy luật trong hoạt động nhận thức.

Do những tính chất trên mà hoạt động lý luận có một tính chất nổi bật khác là tính gián tiếp đối với đối tượng nhận thức.

Xét về mặt tâm lý, có thể thấy chủ thể lý luận là người hoạt động tự giác và tích cực, chủ động nắm bắt đổi tượng. Vì thế, lý luận biểu hiện rõ tính chủ thể của con người.

Ngôn ngữ lý luận mang tính chung.

Lý luận còn mang tính khuynh hướng. Có lý luận tiên tiến, cách mạng, có lý luận bảo thủ, phản cách mạng, có lý luận giáo điều, chiết trung, nguỵ biện, duy lý, phi duy lý, duy khoa học, có lý luận khoa học và không khoa học, phản khoa học v.v. Tuy nhiên, tính khuynh hướng của lý luận không phải là quá trình tự thân của lý luận, mà do thực tiễn quy định.

Cấp độ 1. Cấp độ này là lý luận, lý thuyết, quan điểm của các lĩnh vực nhận thức cụ thể, như kinh tế học, luật học, xã hội học, lịch sử, nghệ thuật học hoặc các lĩnh vực nhận thức của khoa học tự nhiên. Trong mỗi lĩnh vực ấy lại có thể phân chia thành các cấp độ khác nhau nữa, như kinh tế học đại cương và các lý luận kinh tế ngành, sinh học đại cương và các lý luận thuộc các ngành sinh học cụ thể.v.v.

Cấp độ 2. Đây là cấp độ cao hơn, nó là những hệ thống quan điểm triết học, chính trị, xã hội dùng để định hướng, tổ chức hoạt động của các tầng lớp, giai cấp, các tập đoàn, thậm chí cho cả một chế độ, một cộng đồng xã hội. Trong cấp độ này, cũng có sự phân chia, chang hạn cấp độ lý luận triết học và lý luận chính trị, xã hội v.v. Theo Hêghen, “phép biện chứng là sự vận động của lý tính cao cấp”. Ý kiến của ông cho thấy lý luận triết học là một thành tố của lý luận ở cấp độ hai và trong cấp độ ấy triết học còn thể hiện như một yếu tố cao hơn cả.

Sự phân chia những cấp độ khác nhau của lý luận, một mặt căn cứ vào phạm vi đối tượng, những lĩnh vực đối tượng mà lý luận quan tâm, phản ánh, mặt khác căn cứ vào mức độ, trình độ trừu tượng, khái quát và tổng hợp của tư duy (khả năng, năng lực nhận thức) của mỗi lĩnh vực nhận thức, đồng thời căn cứ vào vai trò, tác dụng của mỗi lĩnh vực nhận thức lý luận đối với nhận thức và thực tiễn.

Những hình thức lý luận. Có thể nói, có bao nhiêu lĩnh vực hoạt động lý luận thì có bẩy nhiêu các hình thức lý luận. Thí dụ, trong triết học có triết học chung và các triết học cụ thể, trong sinh vật học có “Sinh học đại cương và các lĩnh vực cụ thể của sinh học v.v.

Hoạt động lý luận là một hệ thống bao gồm những yếu tố và điều kiện cấu thành cơ bản: (1) chủ thể (người hoạt động lý luận) ↔ (2) khách thể (đối tượng) hoạt động lý luận ↔ (3) sản phẩm lý luận ↔(4) những điều kiện của hoạt động lý luận.

Chủ thể hoạt động lý luận là con người hoạt động lý luận, có nhu cầu, mục đích, tiềm năng, năng lực trí tuệ, thể lực, tinh thần nói chung, có kỹ năng, kinh nghiệm, các phương tiện, công cụ hoạt động lý luận (vật chất và tinh thần, hệ thống khái niệm, phạm trù, quan niệm.), đặc trưng cho nó. Chủ thể lý luận còn có những lợi ích, giá trị xã hội, văn hoá đặc trưng cho nó. Mục đích trực tiếp của chủ thể hoạt động lý luận là nắm bắt những quá trình bên trong, tất yếu (bản chất, quy luật) của đối tượng. Mục đích sâu xa của chủ thể hoạt động lý luận là những lợi ích kinh tế – xã hội của những tập đoàn, giai cấp, cộng đồng xã hội mà họ là thành viên của chúng. Chủ thể lý luận có thể là cá nhân, có thể là tập thể, tập đoàn người, cộng đồng xã hội nhất định. Trong hoạt động tập thể, cộng đồng, chủ thể lý luận có sự phân công giữa các cá nhân và các nhóm và vì thế mỗi cá nhân, mỗi nhóm có vị trí, phạm vi hoạt động và vai trò khác nhau. Căn cứ vào những cấp độ khác nhau của hoạt động lý luận có thể thấy những hình thức, dạng, vị trí và vai trò khác nhau của chủ thể lý luận.

Đối tượng của hoạt động lý luận là những khách thể mà chủ thể lý luận tác động vào nhằm khám phá, nắm bắt những quá trình bên trong, tất yếu của chúng. Những khách thể ấy là những hiện tượng, quá trình tự nhiên, xã hội hoặc đời sống tinh thần. Căn cứ vào mỗi lĩnh vực hoạt động và vào những cấp độ khác nhau của hoạt động lý luận có thể phân chia những dạng, hình thức khác nhau của đối tượng hoạt động lý luận. Có thể cùng một khách thể nhưng mỗi cấp độ, mỗi lĩnh vực lý luận có thể nghiên cứu, khám phá nó từ những góc nhìn riêng. Chẳng hạn, cùng nghiên cứu phương thức sản xuất, nhưng kinh tế và kinh tế – chính trị học tiếp cận khách thể này không hoàn toàn giống nhau. Kinh tế học nghiên cứu phương thức sản xuất thuần tuý về kinh tế, trong khi kinh tế – chính trị học nghiên cứu phương thức sản xuất trong tương quan logic với chế độ chính trị nhất định.

Điều kiện của chủ thể hoạt động lý luận là môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá cùng với những yếu tố, quá trình vật chất và tinh thần mà trong đó hoặc trên đó hoạt động lý luận diễn ra. Điều kiện của hoạt động lý luận có thể trực tiếp hoặc gián tiếp quy định hoạt động lý luận cả về nội dung và phương thức. Trong tất cả những điều kiện của hoạt độn2 lv luận thì điều kiện đầu tiên, căn bản nhất là chủ thế hoạt động phải được đáp ứng, thoả mãn những nhu cầu sinh sống tối thiểu, ức là họ phải có “ăn, ở, mặc và đi lại”. Hoạt động lý luận còn phải dựa trên nhũng tiền đề lý luận nhất định, đó là bản thân kết quả của hoạt động lý luận trong những giai đoạn lịch sử trước đó, chẳng hạn những khái niệm, những phạm trù, những lý thuyết đó có trong lịch sử. Chủ thể lý luận cần kế thừa một cách tích cực, có phê phán những tiền đề lý luận mới làm cho sản phẩm hoạt động lý luận của mình đạt trình độ cao, tương xứng với yêu cầu của thời đại.

Sản phẩm của hoạt động lý luận hay kết quả của hoạt động lý luận, là những học thuyết, quan niệm, tư duy, là năng lực tư duy nâng lên sau hoạt động, là quá trình kết tinh, chuyển hoá lý luận vào các lĩnh vực nhận thức khác v.v. Sản phẩm lý luận rất đa dạng. Tuỳ theo lĩnh vực và cấp độ hoạt động lý luận nhất định mà có những hình thức sản phẩm hoạt động lý luận tương ứng. Sản phẩm hoạt động lý luận có thế là chính con người, nhưng không phải là con người nói chung, mà là con người lý luận, con người tinh thần, tuy nhiên đây không phải là sản phẩm chỉ của hoạt động lý luận.

Hoạt động lý luận có thể là hoạt động của từng cá nhân, có thể là của tập thể, thậm chí của một tầng lóp, tập đoàn, cộng đồng xã hội nhất định.

Hoạt động lý luận bao gồm những quá trình diễn ra bên trong bộ óc chủ thể lý luận và những quá trình bên ngoài bao gồm những yếu tố và điều kiện bên ngoài (hoạt động điều tra, thu thập tài liệu, hoạt động tố chức trong các cơ quan, viện nghiên cứu.). Sở dĩ phải phân biệt hai quá trình này là vì, quá trình diễn ra bên trong bộ óc được xem là quá trình bên trong cơ bản của hoạt động lý luận. Quá trình này trực tiếp đưa đến các kết quả là những học thuyết, quan điểm lý luận và nó diễn ra theo phương thức cá nhân, thông qua bộ não của những cá nhân nhất định.

Trong khi phê phán, chỉ ra những khuyết điểm của chủ nghĩa duy vật cũ, kể cả chủ nghĩa duy vật của Phơ-bách, Mác đã chỉ ra khá rõ ràng và toàn diện những đặc trưng của thực tiễn. Theo ông, thực tiễn là một quan hệ chủ thể-khách thể, nó vừa là hoạt động khách quan, cảm tính, vừa có tính phê phán-cách mạng, đồng thời là thực chất của mọi đời sống xã hội. Trong Bút ký triết học, Lênin nhận định: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà còn của tính hiện thực trực tiếp”. Kết họp những luận điểm, nhận định đó của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, có thể chỉ ra nhũng đặc trưng của thực tiễn như sau: a) Thực tiễn là hoạt động của con người, vì vậy nó là một quan hệ chủ thể – khách thể; b) Thực tiễn là hoạt động khách quan, cảm tính, hoạt động vật chất phổ biến. Thực tiễn phân biệt, đổi lập với hoạt động nhận thức, tinh thần, tức là những quá trình diễn ra thuần tuý trong bộ óc người, hoặc những hoạt động chủ yếu nhằm tạo ra và khẳng định những giá trị tinh thần. Sự phân biệt, đối lập với hoạt động lý luận, nhận thức của thực tiễn là ở tính vật chất phổ biến, xem như đặc trưng cơ bản nổi bật của nó. Tính vật chất của thực tiễn bao trùm toàn bộ quá trình hoạt động, thể hiện rõ ở nhu cầu, mục đích cuối cùng, ở các phương tiện và đặc biệt ở sản phẩm cuối cùng mà nó tạo ra; c) Thực tiễn là hoạt động biến đổi (không phải chỉ là cải biến) hin thực; d) Thực tiễn là hoạt động căn bản, nền tảng của mọi hoạt động của con người và xã hội; e) Thực tiễn là hoạt động có tính xã hội và lịch sử.

Cần nhấn mạnh thêm là không nên nói thực tiễn là “hoạt động vật chất” thuần túy, bởi vì nói như vậy sẽ không phân biệt được hoạt động đặc thù của con người với hoạt động của con vật. Đối với con người thì không có hoạt động nào là hoạt động vật chất thuần tuý.

Ngay cả những hoạt động vật chất nhất, sinh vật nhất của con người cũng bao hàm quá trình có ý thức trong đó rồi. Cho nên, ở con người, thực tiễn cũng là hoạt động có ý thức. Nhưng để phân biệt thực tiễn với hoạt động lý luận, hoạt động tinh thần nói chung, cần chỉ ra đặc tính cơ bản của nó là tính vật chất phổ biến, tức là phải quan niệm thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất phổ biến.

Thực tiễn có tính khuynh hướng và tính khuynh hướng này thường do những lợi ích của những tập đoàn xã hội nhất định quy định. Vì vậy, thực tiễn có thể tiến bộ, cách mạng, nhưng cũng có thể bảo thủ, phản tiến bộ, phản cách mạng; thực tiễn có thể mang tính chất nhân đạo, nhân văn chủ nghĩa, cũng có thể mang tính chất vô nhân đạo, phi nhân văn, phi nhân tính v.v.

Phân chia theo lĩnh vực hoạt động, có các hình thức thực tiễn là sản xuất vật chất, hoạt động xã hội hiện thực, thực nghiệm khoa học. Nhưng cũng có thể nói, có bao nhiêu lĩnh vực hoạt động hiện thực của con người thì có chừng ấy hình thức tồn tại của thực tiễn. Các hình thức hoạt động thực tiễn quan hệ biện chứng với nhau, trong đó sản xuất vật chất, suy đến cùng là lĩnh vực hoạt động nền tảng, có vai trò quyết định đến hoạt động trên các lĩnh vực khác.

3. Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn

Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn có thể được xem xét từ nhiều góc độ, quan điểm khác nhau.

3.1. Mối liên hệ vừa thống nhất vừa đối lập giữa lý luận và thực tiễn

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: a) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thể hiện ra là mối liên hệ không thể tách rời giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận nảy sinh từ thực tiễn, thực tiễn quy định nội dung lý luận, lý luận hình thành, phát triển là vì mục đích thực tiễn. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thể hiện ra là tính tương thích, tương ứng giữa chúng. Thực tiễn bao giờ cũng là thực tiễn có những lý luận của nó và lý luận bao giờ cũng là của thực tiễn nhất định. Không có thực tiễn của mọi lý luận, cũng như không có lý luận cho mọi thực tiễn; c) Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn cũng có nghĩa là đồng nhất giữa thực tiễn và lý luận, đó là sự chuyển hoá lý luận thành thực tiễn, áp dụng lý luận thành công trong thực tiễn, là sự phù họp của lý luận với thực tiễn. Đồng nhất giữa lý luận và thực tiễn còn thể hiện ở chỗ lý luận như một thành tố, một quá trình, một sản phẩm tất yếu của thực tiễn.

Quan niệm về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có nội dung cơ bản là về sự phù hợp của lý luận với thực tiễn. Nhung sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là thống nhất trong khác biệt, đối lập.

Sự đối lập giữa lý luận và thực tiễn: a) Với tư cách là hai mặt của thể thống nhất, lý luận và thực tiễn đối lập với nhau với tư cách là đối lập của cái phản ánh, cái sản phẩm với cái được phản ánh, cái nguồn gốc, cái cơ sở; b) Chúng còn biểu hiện sự đối lập giữa cái bị quy định và cái quy định; c) Đối lập của lý luận với thực tiễn còn thể hiện ở sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn hoặc ngược lại, hoặc đối lập với tư cách sự sai lầm của lý luận so với thực tiễn và ngược lại.

“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình, Sự tranh cãi về tính hiện thực hay không hiện thực của tư duy tách rời thực tiễn, là vấn đề kinh viện thuần tuý“. Trong luận điểm triết học nổi tiếng này Mác bàn trực tiếp đến tư duy nói chung, trong đó bao hàm cả lý luận và ông chỉ rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận, ông chỉ ra rằng muốn biết “tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan không”, rằng “sự tranh cãi về tính hiện thực hay không hiện thực của tư duy”, “hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà ỉà một vấn đề thực tiễn“. Điều đó có nghĩa là muốn đạt đến chân lý khách quan, muốn làm cho tư duy con người có tính hiện thực, thì phải thấy được mối liên hệ chặt chẽ của tư duy với thực tiễn, phải căn cứ vào thực tiễn, lấy thực tiễn làm cơ sở. Bởi vì, “chính trong thực tiễn con người phải chứng minh chân lý, tính hiện thực, sức mạnh của tư duy của mình”. Như vậy, ở đây thực tiễn được chỉ ra không chỉ với nghĩa là cơ sở nói chung của nhận thức, lý luận, mà còn ở chỗ là cơ sở cho tính hiện thực, sức mạnh, tính chân lý của tư duy, lý luận, nghĩa là cho cả cái con đường, nguyên tắc để tư duy đạt đến chân lý, đạt được tính hiện thực, sức mạnh của nó.

Lênin khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”. Luận điểm của Lênin không trực tiếp nói rằng thực tiễn là cơ sở của hoạt động lý luận, mà nói về vị trí, vai trò của quan điểm về đời sống, quan điểm về thực tiễn trong lý luận nhận thức, cụ thể là nói về mặt phương pháp luận của lý luận nhận thức. Song việc khẳng định vị trí, vai trò của quan điểm đó đã chứng tỏ vai trò quan trọng quyết định của thực tiễn đối với nhận thức nói chung và lý luận nói riêng.

Cần thấy rằng trong khi trình bày quan niệm về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chúng đã bao hàm quan niệm về vai trò của thực tiễn đối với lý luận. Tuy vậy, không thể đồng nhất hoàn toàn mối liên hệ giữa thực tiễn và lý luận với mối liên hệ giữa thực tiễn và nhận thức nói chung. Trái lại, điều quan trọng, cần thiết ở đây là phải làm rõ tính đặc thù của mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận (lý luận và thực tiễn).

Về vai trò của lý luận đối với thực tiễn

Do tính phổ biến, lý luận có thể dẫn đường cho các giai cấp, thậm chí toàn xã hội trong hoạt động, nhưng điều đó có thể diễn ra với hai khuynh hướng, xu hướng, hai khả năng khác nhau. Nếu lý luận tiến bộ, cách mạng, nó sẽ trở thành sức mạnh vật chất (khi nó “thâm nhập vào quần chúng”), và như thế nó sẽ góp phần làm nên những thay đổi tích cực, kỳ diệu đối với đời sổng xã hội. Nhưng khi lý luận bảo thủ, lạc hậu nó có thể trở thành sức kìm hãm xã hội rất lớn và trên diện rộng, nó có thể làm tê liệt về tinh thần cả một tập đoàn, giai cấp, xã hội, làm cho cả tập đoàn, giai cấp, xã hội bế tắc, mất phương hướng.

Vai trò hết sức quan trọng của lý luận là khẳng định tính chủ thể của con người. Chỉ khi con người nắm bắt được bản chất, quy luật của đối tượng mới có thể chi phối đối tượng, do đó mới có thể khẳng định tính chủ thể của mình. Cho nên, con người cần phải có lý luận trong hoạt động. Mỗi cấp độ của lý luận khẳng định tính chủ thể con người một cách khác nhau. Lý luận của khoa học cụ thể khẳng định tính chủ thế của nhà khoa học, lý luận chung của một lĩnh vực khẳng định chủ thế cộng đồng nhà khoa học, lý luận ở cấp độ cao, cấp độ 2 khẳng định tính chủ thể của giai cấp, cộng đồng xã hội.

Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn không phải là mối liên hệ của hai quá trình độc lập với nhau được kết họp lại với nhau theo một cách thức nào đó, mà trái lại, có cơ sở, căn cứ của chúng. Cơ sở, căn cứ ấy chính là bản thân thực tiễn. Rõ ràng là chỉ có trong thực tiễn con người mới sản sinh ra nhận thức, lý luận của mình và sự ra đời của nhận thức, lý luận là do yêu cầu tất yếu của thực tiễn, đó là thực tiễn cần phải được nhận thức, được ý thức (“ý thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là tồn tại được ý thức”- Mác). Như vậy, lý luận (hay ý thức nói chung) trở thành một yếu tố, vòng khâu (mắt xích) của thực tiễn.

Lý Luận Và Thực Tiễn: Mối Quan Hệ Biện Chứng Và Ý Nghĩa Phương Pháp

là hai trong số những quan trọng của triết học Mác – Lênin. Việc tìm hiểu mối quan hệ biện chứng giữa hai phạm trù này sẽ giúp chúng ta có nhiều bài học bổ ích trong nhận thức và trong lao động, trong công tác.

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.

Bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể.

Hoạt động thực tiễn rất đa dạng, song có thể chia thành ba loại:

– Hoạt động chính trị – xã hội;

– Hoạt động thực nghiệm khoa học.

Trong ba loại trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quyết định đối với các loại hoạt động thực tiễn. Còn hoạt động chính trị – xã hội là hình thức cao nhất của thực tiễn. Hoạt động khoa học là loại hình đặc biệt nhằm thu nhận kiến thức từ tự nhiên và xã hội .

Theo nghĩa chung nhất, lý luận là sự khái quát hóa những kinh nghiệm thực tiễn, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên, xã hội đã được tích lũy trong suốt quá trình tồn tại của nhân loại.

Như vậy, lý luận là sản phẩm cao cấp của , là tri thức về bản chất, quy luật của hiện thực khách quan.

Nhưng do là sản phẩm của nhận thức, nên lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

II. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn

Sở dĩ như vậy vì thực tiễn là hoạt động vật chất, sản xuất ra mọi thứ, còn lý luận là sản phẩm tinh thần, phản ánh thực tiễn.

Thực tiễn là cơ sở, động lực của lý luận. Tức là, thực tiễn là bệ phóng, cung cấp các nguồn lực cho lý luận. Thực tiễn còn vạch ra tiêu chuẩn cho lý luận.

Thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức mạnh cải tạo thế giới khách quan.

2. Tuy nhiên, lý luận có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại thực tiễn.

Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người.

Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Lênin khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.

Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành sức mạnh vật chất.

Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra những phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn.

Lý luận khoa học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mẫm, tự phát. Vì vậy, Bác Hồ đã ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.

Tuy nhiên, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao của sự phản ánh hiện thực nên lý luận có thể xa rời thực tiễn và trở nên ảo tưởng.

Khả năng tiêu cực đó càng tăng lên nếu lý luận đó lại bị chi phối bởi những tư tưởng không khoa học hoặc phản động. Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhưng không được cường điệu vai trò của lý luận, coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn.

Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách mạng.

Như Bác Hồ đã khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.

– Không được tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn, hạ thấp vai trò của lý luận trong lao động, công tác, sản xuất.

Nếu không coi trọng vai trò của lý luận, ta sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa kinh nghiệm. Nếu không có lý luận, ta sẽ ở vào tình trạng mò mẫm, không phương hướng, không xác định được các chương trình, kế hoạch khả thi.

– Ngược lại, ta không được đề cao vai trò của lý luận đến mức xem nhẹ thực tiễn, rời vào bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí. Việc xa rời thực tiễn sẽ đưa đến những chương trình, kế hoạch viển vông, lãng phí nhiều sức người, sức của.

– Trong sự nghiệp Đổi Mới hiện nay, ta phải không ngừng đổi mới tư duy gắn liền với nắm sâu, bám sát thực tiễn.

Chỉ có đổi mới tư duy lý luận, gắn liền với việc đi sâu, đi sát vào thực tiễn thì mới đề ra đường đường lối, chủ trương đúng đắn trong việc xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, dân chủ, văn minh.

Ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài Ctxh Hỗ Trợ Tâm Lý Cho Trẻ Em Mồ Coi

ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài Ctxh Hỗ Trợ Tâm Lý Cho Trẻ Em Mồ Coi, ý Nghĩa Lý Luận Đề Tài Ctxh Hỗ Trợ Tâm Lý Cho Trẻ Em Mồ Coi, Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn ý Nghĩa Phương Pháp Luận Vận Dụng Ppl Trong Công Tác, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Về Vật Chất, ý Nghĩa Lý Luân Và Thực Tiễn Của Đề Tài Công Tác Văn Phong, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Cương Lĩnh, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Thực Tiễn, ý Nghĩa Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Tiểu Luận Ctxh Với Người Tâm Thần, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Mà Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, Luạn Văn Ctxh Trong Giảm Nghèo, Tiểu Luận Ctxh Hỗ Trợ Người Nghèo Tiếp Cận Thông Tin, ý Nghĩa Thực Tiễn Của Chủ Nghĩa Mác Lênin, Luật Nghĩa Vụ Và Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ-bản án Và Bình Luận Bản án, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Chủ Nghĩa Mác, Lý Luận Của Chủ Nghĩa Mác Về Tiền Tệ, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Của Chủ Nghĩa Mác, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn Sau Đây Là Đầy Đủ Và Chính Xác Nhất, ý Nghĩa Thực Tiễn Quân Đội Trong Tình Hình Hiện Nay, Tiểu Luận Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Tiểu Luận Sự Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Là Câu Nói Của Ai, Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Đi Đôi Với Thực Tiễn, Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Là Gì Thực Tiễn Là Gì, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn, Lý Luận Gắn Với Thực Tiễn, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv4, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Năm Đổi Mới, Lý Luận Phải Đi Đôi Với Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Gắn Liền Với Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Và Thực Tiễn Công Tác Lưu Trữ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Dạy Học, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Thực Tiễn Sau 30 Năm Đổi Mới, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv9, Báo Cáo Tiến Độ Thực Hiện Luận Văn Thạc Sĩ, Mối Liên Hệ Giwuax Lý Luận Và Thực Tiễn, Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Dự Thảo Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Triết Học, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Giáo Dục, Chỉ Thị Của Ban Bí Thư Về Tổng Kết Một Số Chuyên Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Đổi Mới, Báo Cáo Tiến Độ Thực Hiện Luận Văn Của Học Viên, Thủ Tục Hành Chính Lý Luận Và Thực Tiễn, Diễn Biến Hòa Bình Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Công Việc, Luận án Tiến Sĩ Công Nghệ Thực Phẩm, Lý Luận Thực Tiễn Và Sự Vận Dụng Quan Điểm Đó Vào Quá Trình Đổi Mới ở Việt Nam, Quy Trình Ban Hành Luật, Pháp Lệnh Lý Luận Và Thực Tiễn, Hãy Phân Tích Thực Tiễn Và Vai Trò Của Thực Tiễn Đối Với Nhận Thức, Trên Cơ Sở Lý Luận Thực Tiễn Về Phát Huy Dân Chủ, Giữ Nghiêm Kỷ Luật, Phấn Đấu Xứng Danh Bộ Đội Cụ H, Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Của Việt Nam Về ưu Đãi Đầu Tư Với Thực Tiễn ở Tỉnh Quảng Bình, Trên Cơ Sở Lý Luận Thực Tiễn Về Phát Huy Dân Chủ, Giữ Nghiêm Kỷ Luật, Phấn Đấu Xứng Danh Bộ Đội Cụ H, Danh Mục Sách Thư Viện Của Khoa Ctxh, Sự Vận Dụng Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đcsvn Trong Thời Kì Đổi Mới., Nghiên Cứu Khoa Học Về Ctxh Trong Bệnh Viện, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Phương Thức Sản Xuất, Báo Cáo Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến Ngành Giáo Dục, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Định Nghĩa Vật Chất Của Lênin, Bài Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Công An Nhân Dân, Bài Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến Trong Công An Nhân Dân, Lý Luận Chủ Nghĩa Tư Bản Độc Quyền Và ý Nghĩa Trong Việc Hình Thành Cộng Đồng Asean, Bài Tham Luận Về Gương Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Tại Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Tham Luận Tại Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Về Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Cá Nhân, Báo Cáo Tham Luận Cá Nhân Điển Hình Tiên Tiến, Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Mẫu Tham Luận Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Tại Hội Nghị Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Cá Nhân, Báo Cáo Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Gương Điển Hình Tiên Tiến, Mẫu Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến 5 Năm, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến Tập Thể, Bài Tham Luận Báo Cáo Điển Hình Tiên Tiến, Tiểu Luận Xây Dựng Nền Văn Hóa Việt Nam Tiên Tiến Đậm Đà Bản Sắc Dân Tộc, Báo Cáo Tham Luận Điển Hình Tiên Tiến, Bài Tham Luận Về Điển Hình Tiên Tiến, Luật Nghĩa Vụ Dân Sự Và Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ Dân Sự, Tiểu Luận Về Các Kỹ Năng Lãnh Đạo Cần Thiết Của Cấp Phòng Và Thực Tiễn Lãnh Đạo Cấp Phòng ở Cơ Quan, Định Nghĩa Tiền, Định Nghĩa ưu Tiên, ý Nghĩa Văn Bản Bài Học Đường Đời Đầu Tiên,

ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài Ctxh Hỗ Trợ Tâm Lý Cho Trẻ Em Mồ Coi, ý Nghĩa Lý Luận Đề Tài Ctxh Hỗ Trợ Tâm Lý Cho Trẻ Em Mồ Coi, Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn ý Nghĩa Phương Pháp Luận Vận Dụng Ppl Trong Công Tác, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Đề Tài, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Về Vật Chất, ý Nghĩa Lý Luân Và Thực Tiễn Của Đề Tài Công Tác Văn Phong, ý Nghĩa Lý Luận Và Thực Tiễn Của Cương Lĩnh, ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Thực Tiễn, ý Nghĩa Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Tiểu Luận Ctxh Với Người Tâm Thần, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Mà Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Thực Tiễn Không Có Lý Luận Là Thực Tiễn Mù Quáng, Luạn Văn Ctxh Trong Giảm Nghèo, Tiểu Luận Ctxh Hỗ Trợ Người Nghèo Tiếp Cận Thông Tin, ý Nghĩa Thực Tiễn Của Chủ Nghĩa Mác Lênin, Luật Nghĩa Vụ Và Bảo Đảm Thực Hiện Nghĩa Vụ-bản án Và Bình Luận Bản án, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Chủ Nghĩa Mác, Lý Luận Của Chủ Nghĩa Mác Về Tiền Tệ, Tiền Đề Lý Luận Ra Đời Của Chủ Nghĩa Mác, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn, Định Nghĩa Nào Về Thực Tiễn Sau Đây Là Đầy Đủ Và Chính Xác Nhất, ý Nghĩa Thực Tiễn Quân Đội Trong Tình Hình Hiện Nay, Tiểu Luận Nguyên Tắc Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Tiểu Luận Sự Thống Nhất Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông, Lý Luận Mà Không Có Thực Tiễn Là Lý Luận Suông Là Câu Nói Của Ai, Lý Luận Và Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn, Lý Luận Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Đi Đôi Với Thực Tiễn, Lý Luận Và Thực Tiễn Là Gì, Lý Luận Là Gì Thực Tiễn Là Gì, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn, Lý Luận Gắn Với Thực Tiễn, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv4, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 20 Năm Đổi Mới, Lý Luận Phải Đi Đôi Với Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận – Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Gắn Liền Với Thực Tiễn, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực Tiễn Qua 30 Năm Đổi Mới, Lý Luận Và Thực Tiễn Công Tác Lưu Trữ, Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Dạy Học, Báo Cáo Tổng Kết Một Số Vấn Đề Lý Luận Thực Tiễn Sau 30 Năm Đổi Mới, Từ Lý Luận Đến Thực Tiễn Htv9, Báo Cáo Tiến Độ Thực Hiện Luận Văn Thạc Sĩ, Mối Liên Hệ Giwuax Lý Luận Và Thực Tiễn, Mối Quan Hệ Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn,

Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Vấn Đề Này, Sự Vận Dụng Của Đảng Ta

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này. Sự vận dụng của Đảng ta. Đáp án Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và là một phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý … luôn là chìa khóa để để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Trước hết, ta đi vào các khái niệm cơ bản: 1- Thực tiễn là gì? Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học Mác – Lênin nói chung. * Quan điểm của triết học trước Mác: – Điđơrô (nhà triết học Pháp): hiểu chưa đầy đủ về thực tiễn, cho rằng thực tiễn là hoạt động thực nghiệm khoa học trong phòng thí nghiệm. – Phoiơbắc (nhà triết học duy vật siêu hình người Đức): thực tiễn chỉ là những hoạt động bẩn thỉu của các con buôn. – Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan người Đức): thực tiễn chỉ là khái niệm, tư tưởng thực tiễn chứ không phải bản thân thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất. * Quan điểm triết học mácxít: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động vật chất của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động vật chất “cảm tính” của con người. Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và được tiến hành trong các quan hệ xã hội, là hoạt động mang tính năng động, sáng tạo, là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xa hội loài người. Hoạt động thực tiễn có ba dạng cơ bản, đó là: + Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên của thực tiễn, có vai trò quyết định đối với các dạng hoạt động khác của thực tiễn. Vì: nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đến sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội loài người. + Hoạt động chính trị – xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. + Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các qui luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. 2- Lý luận là gì? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Xét về bản chất: lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính trừu tượng khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật … phản ánh bản chất của sự vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành trong mối quan hệ với thực tiễn. 3 – Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn: Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận: Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thực, lý luận. Thực tiễn là nguồn gốc cơ sở sinh ra lý luận, nến không có thực tiễn thì không có lý luận, thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực trực tiếp. Sự phản ánh vượt trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những thiên tài ở những giai đoạn lịch sử nhất định xét cho đến cùng thì cái làm nên sự vượt trước ấy cũng đã được nảy mầm từ mảnh đất thực tiễn sinh động, đều do thực tiễn gợi ý mách bảo Chỉ có thông qua thực tiễn con người mới vật chất hóa dược lý luận vào đời sống hiện thực. Lý luận không có sức mạnh tự thân mà chỉ có thông qua thực tiễn thì lý luận mới phát huy tác dụng, mới tham gia vào quá trình biến đổi hiện thực. Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức, lý luận. Vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà còn của tính hiện thực trực tiếp”. Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn: Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học, phản động, lạc hậu. Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp. Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát. Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho rằng: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. Mác thì nhấn mạnh: “Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng vật chất”. Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới của thời đại ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư duy lý luận. Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây. Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau mà giữa chúng có sự liên hệ, xâm nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn trong qúa trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn CM và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trò cải tạo thế giới chứ không chỉ giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng đã tìm thấy ở giai cấp vô sản vũ khí vật chất của mình và giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác – Lênin vũ khí tinh thần của mình. Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ thể hóa chủ nghĩa Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Lý luận cần phải được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” hoặc “Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ”. 4- Ý nghĩa phương pháp luận: Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn trong nhận thức và cuộc sống. Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực tiễn. Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý luận yêu cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ những căn cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng. Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. + Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức và hành động chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu học hỏi để vương lên, không coi trọng việc tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận, “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào công tác sự vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, nhất là đối với những người trình độ văn hoá kém, ít quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm một cách thiếu sáng tạo. + Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ dựa vào lý luận, coi lý luận là “chìa khóa vạn năng” cho tư duy và hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở chỗ: coi tri thức là chân lý tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh lý luận suông, không biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng nơi, không biết bổ sung lý luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động và vận dụng một cách máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và thực tiễn. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Để khắc phục hai căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời phải coi trọng lý luận, nâng cao trình độ tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phê phán sai lầm của chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Khi đặt vấn đề phải học tập lý luận theo Người, học lý luận không phải để thuộc lòng từng câu từng chữ, cũng không phải học lý luận để đem loà thiên hạ, để kiêu ngạo, để mặc cả với Đảng, để trở thành những người lý luận suông. Mà mục đích học tập lý luận để tự cải tạo mình, để tránh mò mẫm, để đỡ phạm sai lầm trong công tác, để hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Học tập lý luận là cốt áp dụng vào thực tế và khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những lý luận mới sinh ra từ trong thực tiễn. 5- Sự vận dụng của Đảng ta: Trước đổi mới: Do chưa nhận thức đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý luận với thực tế điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết. Một trong những sai lầm trong chính sách của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới là xuất phát từ căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu kém về lý luận làm cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén sơ lược, không đến nơi đến chốn, CNXH được hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước. Hoặc áp dụng máy móc theo học thuyết của Mác về kinh tế là phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế mà không thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đảng ta cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước: Chủ trương tập trung cho công nghiệp hóa đất nước mà chủ lực là phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến điều kiện vật chất và lực lượng sản xuất của ta còn chưa tương xứng, với xuất phát điểm còn rất thấp từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ lực lượng sản xuất không cao, sản xuất thủ công là chủ yếu. Có thể nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư, chúng ta thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng lý luận vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng chưa đúng các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị trường…), quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế độ công hữu, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, quá tập trung quyền lực nhà nước, dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối … làm cản trở sự sáng tạo, tạo nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội. Cũng trong thời kỳ này chúng ta đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những giá trị, những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng xoá bỏ sản xuất hàng hoá, xoá bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xem kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa đối lập với CNXH là do căn cứ một cách cứng nhắc vào luận điểm của Mác và Ăngghen rằng chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ buôn bán; cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hóa cũng bị loại trừ và do đó sự thống trị của hàng hóa đối với những người sản xuất cũng bị loại trừ. Thực ra những luận điểm của CácMác và Ăngghen chỉ là những dự đoán về giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản : giai đoạn chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, Mác đã nhấn mạnh : đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, vì vậy về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần nó vẫn còn mang những dấu vết của xã hội cũ, nói cách khác, hệ thống kinh tế – xã hội của CNXH còn mang nhiều dấu ấn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, làm sao xóa ngay được cái “dấu vết” đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là kinh tế hàng hóa cũng như không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức mà chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần. Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm cho đường lối chính sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội : Nnhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế – xã hội bị tích nén lại Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển của đất nước. Đại hội IV chưa xác định được những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Cụ thể là trong 5 năm 1976 – 1980, đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cụ thể là đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, chỉ thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đại hội V đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã hội nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt đầy đủ các quy luật khách quan, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội chủ quan và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế. Cụ thể là đã chưa thật sự coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Về xây dựng cơ bản, vẫn thiên về xây dựng các công trình quy mô lớn nhưng chưa thật cấp bách, kém hiệu quả dẫn đến sự phân tán về tiền vốn và vật tư. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc ra sức xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã có những biều hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu