Ý Nghĩa Nhan Đề Viếng Lăng Bác Facebook / Top 17 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Thanhlongicc.edu.vn

Ý Nghĩa Nhan Đề Chiếc Thuyền Ngoài Xa

“Chiếc thuyền ngoài xa” là nhan đề một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu, trước in trong tập Bến quê (1985), sau được dùng đặt tên cho cả tập truyện ngắn gồm 15 truyện do nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1987. Thiên truyện được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học lớp 12 phổ thông, cả ban khoa học xã hội – nhân văn lẫn ban cơ bản.

Đặt vấn đề tìm hiểu ý nghĩa nhan đề một truyện ngắn hoàn toàn không phải là một cái gì mới mẻ bởi lẽ sự hoàn chỉnh về nội dung được thể hiện ngay trong ý nghĩa mà đầu đề văn bản chỉ ra, đặc biệt là với các văn bản nghệ thuật vốn thường mang những nhan đề hàm ẩn. Vậy nhan đề ấy – Chiếc thuyền ngoài xa- có ý nghĩa như thế nào?

Ý nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa

Những nhan đề loại này đòi hỏi người tiếp nhận phải suy nghĩ, liên tưởng mới có thể hiểu được ý nghĩa của chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người cho rằng nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản.

Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu có vinh dự là người ” thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” ( Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học sau 1975. Trong nhà trường, hai tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã được đưa bộ sách cải cách trước đây ( Bức tranh ở cấp trung học cơ sở và Mảnh trăng cuối rừng ở cấp trung học phổ thông) và lần thay sách này, giáo viên và học sinh lại được tiếp cận hai tác phẩm khác- Bến quê ở cấp trung học cơ sở và Chiếc thuyền ngoài xa ở trung học phổ thông.

Hầu như các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông đều mang những nhan đề vừa cụ thể lại vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nếu như Mảnh trăng cuối rừng vừa là một hình ảnh thực được miêu tả trong truyện và trở đi trở lại nhiều lần, thành hình ảnh nổi bật và bao trùm toàn bộ khung cảnh của câu chuyện, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho nữ nhân vật chính- Nguyệt thì ” Chiếc thuyền ngoài xa” cũng có phần giống như thế

1- Chiếc thuyền ngoài xa là chiếc thuyền thực hay chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật?

Phần vào chuyện kể trọn vẹn sự cần thiết phải có bức ảnh. Nguyên là người trưởng phòng của nhân vật ” tôi” ( tên là Phùng – nhân vật người kể chuyện) “là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến”, anh ta đã đề xuất yêu cầu ” Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Suốt năm tháng ròng làm việc khá thông đồng bén giọt, tổ nhiếp ảnh nghệ thuật đã mang về không biết cơ man nào là ảnh nhưng cũng chỉ có 11 bức được lọt vào cặp mắt xanh của viên trưởng phòng ” sâu sắc nước đời”. Một bức ảnh thiếu hụt oái oăm kia được trưởng phòng tin cẩn giao cho ” tôi” phải săn tìm cho được. Mà là tấm ảnh chụp có ” sương biển” giữa mùa tháng bảy – dường như thường ” chỉ có bão táp với biển động”. Thật là một vụ gieo trồng trái thời vụ vì “tôi” quá biết ” Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba cơ!”.

Nhưng rồi ” khi nên trời cũng chiều người”, ” tôi” đã trở lại vùng biển chiến trường xưa, cách Hà Nội sáu trăm cây số” và vác máy nằm “phục kích” ở chính cái nơi mà ” dường như trong suốt dải bờ biển khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù”. Đây cũng còn là quê của một đồng đội cũ của ” tôi”, giờ đang là Chánh án toàn án huyện. Thật là gồm đủ thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Và ” tôi” đã bỏ qua nhiều cảnh có ‘ không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng” để chớp lấy cái khoảnh khắc ” đắt” trời cho”. Đó là cảnh ” trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn và trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ…”. Nhà nghệ sĩ dạt dào một cảm hứng nghệ thuật, trải qua một khoảnh khắc yên-sĩ -phi -lí thuần tuyệt diệu: ” toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tòan bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? (…). Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.”. Và tuyệt tác đã ra đời trong sự hưng phấn nghệ thuật – ” cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Rất cần chú ý thành phần phụ chú ” do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” trong lời kể chuyện. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền giữa biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời

Như thế, xét riêng về công vụ, nhiệm vụ của “tôi” lúc này đã hoàn thành. “Tôi” đã có cảnh thuyền và biển trong sương đúng như đặt hàng của trưởng phòng, mặc dù giữa mùa tháng bảy! Và ‘ tôi” đã có thể ung dung ” nhảy lên tàu hoả trở về”. Nếu khéo liên hệ một tí, ta dễ thấy nếu như ” tôi” về ngay lúc đó khác nào cô Nguyệt ( trong Mảnh trăng cuối rừng) xuống xe ở cầu Đá Xanh.

Phần đầu truyện như thế đủ cho người đọc biết xuất xứ của bức ảnh nghệ thuật đặc sắc trên cuốn lịch năm mới kia ra đời thế nào. Và nếu nghĩ sâu xa hơn thì cũng cần bấy nhiêu ấy cũng đủ cho bộ môn lí luận nghệ thuật khái quát về công phu lao động của nghệ sĩ.

Phần kết truyện cho biết người trưởng phòng rất hài lòng với bức ảnh và bức ảnh không chỉ có tuổi thọ ngang với một cuốn lịch năm mà “mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Mở và kết truyện như vậy cho thấy, chiếc thuyền trong ” chiếc thuyền ngoài xa” là chiếc thuyền vừa có thực trong đời, vừa là chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật và nó cũng chính là một chi tiết nghệ thuật đắt, không dễ trong đời cầm máy ” tôi” đã có được may mắn thứ hai.

2- Tại sao lại là “chiếc thuyền ngoài xa”?

Theo dòng kể của ‘ tôi” rõ ràng chiếc thuyền được chụp trong một cự li tương đối gần – ” một chiếc thuyền lưới vó…đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”- nhà nghệ sĩ nhìn rõ cả “những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó”. Người thưởng thức bức ảnh thông thường chắc không ai không cảm nhận chiếc thuyền đang được chụp trong một cự li gần như thế. Thế nhưng vì sao tác giả lại đặt nhan đề truyện là ” chiếc thuyền ngoài xa”?

Trở lại luận điểm ban đầu về đầu đề văn bản: Nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản. Nếu như nhan đề chỉ đơn thuần phản ánh các đối tượng thì hẳn chiếc thuyền trong ảnh không phải là ngoài xa! Phải chăng nhan đề đó phản ánh cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.

Thật vậy, theo yêu cầu của trưởng phòng, bức ảnh phải săn tìm lần này “Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật” nhưng bức ảnh chụp được lại có ‘ vài bóng người lớn lẫn trẻ con”. Như không sao, dù có người thì người cũng chỉ ” ngồi im phăng phắc như tượng”!

Điều đáng nói là bức ảnh như thế đã ghi nhận được cái gì? Quả là một bức ảnh đẹp được chụp từ một cự li khá gần nhưng cái cách tiếp cận ” thực tế”, tiếp cận ” nguyên mẫu” như thế là cách tiếp cận từ xa vì nhà nghệ sĩ chỉ thu được cái hình hài bên ngoài, cái thơ mộng bên ngoài của cảnh và người. Bởi vì ngay sau khi nhà nghệ sĩ ” săn tìm” được cái đẹp trong cuộc đời để sáng tạo ra cái đẹp nghệ thuật kia, thì anh ta đã phải chứng kiến một cảnh đời cay cực, ngang trái mà không một người bình thường nào có thể ngoảnh mặt làm ngơ, nói chi đến nghệ sĩ vốn được coi là những con người đa cảm, đa mang!

Là nghệ sĩ và đã từng là một người lính, chứng kiến cảnh thằng con – Phác- vì thương mẹ mà đánh lại cha, khi thì bằng chính chiếc thắt lưng của lính nguỵ mà người cha của nó dùng để đánh mẹ nó, khi thì định dùng cả “ám khí” là một con dao găm lận ‘ trong cạp quần đùi”, ” tôi” đã không khoanh tay ngồi nhìn vì ” bất luận trong hoàn cảnh nào, tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo chio hắn đánh”. Và hậu quả là ‘ tôi” đã bị thương vì người chồng kia chống trả quyết liệt để tự vệ. Vậy cái cảnh thơ mộng đẹp đẽ mà ” tôi” thu được vào ống kính Pratica và cái cái cảnh đời ngang trái mà trong tư cách cựu chiến binh ” tôi” đã chứng kiến và tham dự cái nào cận nhân tình hơn? Do đó ảnh chụp chiếc thuyền thơ mộng kia chẳng phải là kết quả của lối tiếp cận hiện thực từ xa ư? Chiếc thuyền ngoài xa được chụp trong cự li gần là với ý nghĩa như vậy đó!

Chưa hết, do dưỡng thương và nể bạn nên ” tôi” nán lại thêm mấy hôm và chính lần này ” tôi” mới vỡ ra mọi lẽ. Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu – người đồng đội cũ của ” tôi”, giờ là Chánh án toàn án huyện- và người phụ nữ khốn khổ kia, ‘ tôi mới vỡ ra nhiều lẽ. Thì ra nếu chiếc thuyền chụp được là ” từ xa” thì cái cảnh ” tôi” chứng kiến cũng chỉ là bề nổi của cuộc đời gia đình nhà chài nọ. Vì sao người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận “đòn chồng” và cũng không chịu li dị, hiểu theo nghĩa nào đó là không chịu ” giải phóng” mình. Cái lí do chị đưa ra đã đưa hai người cựu chiến binh tốt bụng – một là một nghệ sĩ, một được mệnh danh là một Bao công- đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:

-” Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”

– ” Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão ách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu. giá mà lão uống rượu …thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”

– ” Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông …Cũng có khi biển động sóng gió chứ?”.

– ‘ Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó- vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ”.

Cái vòng luẩn quẩn của những kiếp người cần lao quả thật đầy bất ngờ đối với ” tôi”, vốn đã trải qua mấy năm chiến đấu tại mảnh đất này, đã giải phóng mảnh đất này và hiện đang là nhà báo từng dong ruổi nhiều nơi! Và ” tôi” cũng nhận ra rằng vì sao ông lão ( cha người phụ nữ) làm nghề sơn tràng ” ở tận trên miền rừng A So” và thằng cháú ngoại lại hay xuất hiện ở miệt biển này và tại sao trong buổi sáng chia tay ” tôi” ông lão luôn “đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền”. Vậy, với tất cả những điều ấy, “chiếc thuyền nghệ thuật” của “tôi” nói được cái gì cận nhân tình chưa hay cũng chỉ là ” chiếc thuyền ngoài xa”? Nhan đề ấy phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.

Tóm lại, qua thiên truyện và cách đặt tên nhan đề, ta thấy nhân vật ” tôi” vẫn chưa hoàn toàn thoả mãn với những gì ống kính của mình đã thu được. Đằng sau bức ảnh chiếc thuyền thơ mộng ấy còn là những cuộc đời, những con người lầm lụi, khốn khổ đến quẫn trí và giải toả cái quẫn trí ấy bằng những giải pháp hết sức kì quặc. Bức ảnh “thuyền và biển” kia đã nói được gì đâu. Và đó là cách để nhà văn Nguyễn Minh Châu bộc lộ thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín chứa đầy những nghịch lí, mâu thuẫn của đời sống hậu chiến tranh và đó cũng là đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu, người tiên phong tinh tường và tài ba trên hành trình đổi mới văn học nước nhà. Có thể hiểu ” Con thuyền ngoài xa” là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống. Chính khát vọng muốn tìm đến cái đẹp, cái hài hoà, muốn làm cho con người hạnh phúc nhiều khi đã đưa người ta đến chỗ giản đơn hoá không nhận ra cái thực tế khắc nghiệt thì suy cho cùng cũng chỉ là một kiểu ” lướt nhẹ trên bề mặt cuộc sống” chứ đâu đã là thứ nghệ thuật ” là tiếng đau khổ…thoát ra từ những kiếp lầm than” ( Nam Cao- Trăng sáng).

Từ đó, có thể phát hiện ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa: Khi con thuyền là đối tượng của nghệ thuật thì có thể được chiếm lĩnh từ xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thực cuộc đời cần phải được chiếm lĩnh ở cự li gần. Đừng vì nghệ thuật thuần tuý mà bỏ quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước cuộc đời, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. Với ý nghĩa ấy, phần nào gợi ra những liên tưởng tương đồng với truyện ” Trăng sáng” của nhà văn Nam Cao.

Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Vợ Nhặt Của Kim Lân

Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân Bài làm: Kim Lân vốn nổi lên là một trong ba nhà văn có cách viết độc đáo và dễ dàng đi sâu phản ánh rõ nét bản chất bên trong của tác phẩm. Đó không chỉ là hình ảnh của một ngòi bút nhân đạo mà còn một tấm lòng người nghệ sĩ luôn gắn bó gắn kết với cuộc sống người nông dân. Kim Lân đã viết lên một “vợ nhặt” và qua đó đã kể cho ta nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Nhan đề đã thâu tóm được giá trị cốt lõi và nội dung tư tưởng của toàn bộ tác phẩm.

Ta luôn biết rằng, trong cuộc sống của ta từ trước hay từ thời đại hiện nay. Vợ – vốn được xem là một người vô cùng cao quý và thiêng liêng. Chính họ là người luôn được xem trọng và được coi như một trong những điều quan trọng của bất kì ai khi lớn lên đến tuổi dựng vợ gả chồng. Và một người, muốn lấy được vợ thì hẳn cuộc sống phải có đầy đủ điều kiện, có hoàn cảnh tương đối tốt mới có đủ điều kiện để lấy vợ – gả chồng.

Nhưng đây lại khác. Ta ngạc nhiên khi từ “vợ” trang trọng cao quý ấy lại đi đôi với với từ “nhặt”. Từ nhặt đã làm từ vợ trở thành một danh từ chung, chỉ sự nhỏ bé và xem như một sự rẻ rúng, coi như rơm như rác có thể ‘nhặt” được ở bất kì đâu. ĐƯợc xem như một vật vô giá trị, không ra gì,. Người vợ gần như bị coi như không được xem trọng, người vợ không còn ở vị trí trung tâm của việc xay dựng tổ ấm. Người ta thường hay nói tới việc “cưới vợ” chứ ai có nói đến việc “nhặt vợ” vậy mà Tràng lại Nhặt vợ. Đó thật sự thâu tóm một giá trị hiện thực, sự khốn cùng của hoàn cảnh, của nạn đói lúc bấy giờ ở nước ta.

Hơn nữa, nhan đề còn thể hiện tình cảnh thê lương, thảm cảnh của người dân 1945 bộc lộ một sự cưu mang, đùm bọc. Một thái độ cao đẹp của con người khi biết chia sẻ, bao bọc thể hiện ngòi bút nhân đạo thái độ nhà văn luôn để họ vươn lên khát vọng hướng tới tổ ấm hạnh phúc và niềm tin của con người trong bất kì hoàn cảnh nào.

Kim Lân đã xây dựng một hình ảnh và một thái độ vô cùng ấn tượng và đẹp đẽ. Nó không chỉ khiến ta có ấn tượng với câu truyện, mà còn là một trong những nhan đề hay, xuất sắc, độc đáo, thâu tóm được giá trị nội dung hấp dẫn và tài năng của nhà văn.

Ý Nghĩa Nhan Đề “Vợ Nhặt” Của Nhà Văn Kim Lân

Ý nghĩa nhan đề “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân

Kim Lân đã chọn cho đứa con tinh thần của mình là từ “Vợ nhặt”. Đây là một từ ghép phân nghĩa được ghép bởi danh từ “vợ” và động từ “nhặt”. Khi 2 từ đơn này được kết hợp với nhau, động từ nhặt lại ngay lập tức chuyển đổi từ động từ sang tính từ. “Vợ nhặt” ở đây dùng để định danh một loại vợ, đó là vợ theo không, người vợ không mai mối, không lễ nghĩa cưới xin. Bởi chỉ cần nhắc tới từ “nhặt” thôi chúng ta đã có rất nhiều những liên tưởng khác nhau. Bởi lẽ, chúng ta chỉ thường biết tới việc nhặt nhạnh bông hoa, nhặt cái cây, nhặt cọng rơm ngọn cỏ, thế nhưng ở đây, có một sự thật thật trớ trêu và bi hài đó là nhặt được vợ

Nhan đề “Vợ nhặt” gắn chặt với bối cảnh lịch sử ra đời của tác phẩm đó là hoàn cảnh, số phận thê thảm của những người phụ nữ trong nạn đói năm 1945. Chỉ với 2 lần gặp gỡ, 4 bát bánh đúc, vài câu nói tầm phơ tầm phào mà đã nên duyên vợ chồng. Ẩn chứa sau nhan đề “Vợ nhặt” là những suy ngẫm của tác giả, đó là sự trăn trở, xót xa trước giá trị thấp kém của con người trong hoàn cảnh éo le, bi kịch.

Nhan đề gợi tình huống éo le, kích thích trí tò mò người đọc. Thông thường, chúng ta chỉ thường thấy từ “vợ” đi với những từ như “vợ yêu, vợ đẹp,…” nhưng ở đây lại lại “vợ nhặt” chưa bao giờ giá trị của con lại rẻ rung đến như thế. Bởi việc dựng vợ gả chồng là việc lớn, thiêng liêng, có ăn hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người Việt, không thể qua quýt, coi như trò đùa.

Nhan đề “Vợ nhặt” gợi lại thực nạn đói khủng khiếp năm 1945. Từ đó, thấy được sự tàn bạo của chế độ thực dân, phát xít, thấy giá trị con người rẻ rúng – người ta có thể nhặt được như cọng rơm, cọng rác ngoài đường. Thế nhưng chính câu chuyện này cũng đã bộc lộ những vẻ đẹp của nhân dân lao động, họ vẫn vui, vẫn không ngừng hy vọng về cuộc sống. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mà nhà văn muốn gửi gắm. Thêm vào đó, không thể phủ nhận rằng khi đọc nhan đề “Vợ nhặt” chung ta bắt gặp một điều gì đó rất lạ lùng, rất hút, cái tên nghe có vẻ lạ lùng này đã giúp cho độc giả tò mò và nhất định phải đọc, tìm hiểu câu chuyện này.

“Vợ nhặt” là điều trái khoáy, oái ăm, bất thường, vô lí. Song thực ra nó lại rất có lí. Vì đúng là anh Tràng đã nhặt được vợ thật. Chỉ một vài câu bông đùa của Tràng mà có người đã theo về làm vợ. Điều này đã thực sự khiến một việc nghiêm túc, thiêng liêng trở thành trò đùa và ngược lại, điều tưởng như đùa ấy lại chính là sự thực. Từ đây, bản thân nhan đề tự nó đã gợi ra cảnh ngộ éo le, sự rẻ rúng của giá trị con người. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Cảm nhận truyện ngắn “Vợ nhặt”

Kim Lân là nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Tuy ông sáng tác không nhiều nhưng có nhiều tác phẩm xuất sắc. Kim Lân có sở trường về truyện ngắn và am hiểu sâu sắc về đời sống nông thôn. Ông viết về cuộc sống, con người nông thôn bằng tình cảm và tâm hồn của người gắn bó mật thiết với nông thôn. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân và của nền văn học Việt Nam thế kỷ 20.

Tác phẩm “Vợ nhặt” lấy bối cảnh nước ta những năm đầu 1940, khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương. Nhân dân ta lâm vào tình thế một cổ hai tròng. Ở miền Bắc, phát xít Nhật bắt nhân dân nhổ lúa trồng đay. Trong khi đó, thực dân Pháp tăng thuế và ra sức vơ vét, bóc lột. Đầu năm 1945, nhân dân ta lâm vào nạn đói chưa từng thấy. Từ Lạng Sơn đến Quảng Trị hơn hai triệu người chết đói thê thảm. Nỗi đau này làm xúc động mãnh liệt lòng người. Tác phẩm được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nạn đói đầu năm 1945 vẫn còn ảnh hưởng nặng nề đến các tầng lớp nghèo trong xã hội.

Tác phẩm xoay quanh câu chuyện lấy vợ của nhân vật Tràng. Tràng là thanh niên chưa vợ, sống ở xóm ngụ cư. Trong lúc cái đói đang hoành hành khắp nơi, Tràng dắt về nhà một người phụ nữ làm mọi người ngạc nhiên và làm thay đổi bộ mặt của xóm. Người đàn bà về làm vợ Tràng từ một lời đùa giỡn, chị cũng rất nghèo đói rách rưới.

Mẹ Tràng hết sức bất ngờ, nhưng vẫn chấp nhận dâu mới. Bà mừng cho con nhưng lại buồn tủi vì nghèo nên không có nổi mâm cơm ra mắt cho con. Có nàng dâu mới, gia đình Tràng ấm cúng hẳn. Tràng cũng ý thức được trách nhiệm của mình với gia đình; nhưng cái đói đã thể hiện trong bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới với bữa ăn cháo cám.

Dù vậy, họ vẫn thấy đầm ấm, tràn đầy niềm tin và hạnh phúc. Bà cụ Tứ luôn khuyên con những lời khuyên chí tình và luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Qua thông tin cúa vợ, Tràng mới biết Việt Minh phá kho thóc Nhật để chia thóc cho người đói. Tràng thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ và trong óc Tràng, hình ảnh lá cờ đỏ bay phất phới.

Thông qua câu chuyện cảm động của gia đình Tràng, truyện ca ngợi những người lương thiện trong tai họa đói kém khủng khiếp do thực dân Phát xít gây ra vẫn cưu mang đùm bọc nhau, vẫn khao khát mái ấm gia đình, tin tưởng vào tương lai và hi vọng vào sức mạnh giải phóng của Cách mạng.

Nhan đề “Vợ nhặt” đã gợi cho người đọc cảm động về cành đời, số phận của người lao động nghèo trước Cách mạng tháng Tám có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. “Nhặt” là lượm được, nhặt được vu vơ. Xưa nay người ta nhặt đồ vật, nhặt một cái gì đó chứ chưa ai từng “nhặt vợ”. Chi tiết ấy nói lên hoàn cảnh, số phận của người nghèo đói, đồng thời thể hiện tinh thần nhân đạo đáng quý của người lao động: họ sẵn sàng cưu mang, quan tâm, chăm sóc nhau dù trong hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.

Truyện cũng khắc họa thành công thảm họa của dân tộc do thực dân phát xít gây ra. Nạn đói khủng khiếp đưa con người đến tình cảnh khốn cùng (cảnh người chết đói và những khuôn mặt u tối của người dân xóm ngụ cư). Do đó, giá trị của con người cũng rẻ mạt. Họ không hơn một vật tầm thường nhặt được. Tác phẩm lên án xã hội thực dân nửa phong kiên tàn bạo đã đây nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Qua tình cảm và hành động của Tràng với cô vợ, bà cụ Tứ với hai con và của cô vợ với gia đình Tràng, tác phẩm ca ngợi tình người thắm thiết. Họ luôn sẵn lòng cưu mang, nương tựa, quan tâm chăm sóc nhau trong cảnh khốn cùng. Trong nghịch cảnh, sống chét chưa biết thế nào, họ chấp nhận bên nhau. Họ đều tìm được hạnh phúc cho mình. Nghịch cảnh có thể khốc liệt và khó khăn còn tiếp tục kéo dài, thế nhưng, trong trái tim của họ luôn nồng cháy khao khát tình yêu thương, mái ấm gia đình, hạnh phúc. Chưa bao giờ họ thôi tin tưởng vào cuộc sống. Họ hi vọng vào tương lai trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng được mọt tình huống truyện gây cấn, độc đáo, giàu ý nghĩa, có tác dụng làm nôi bật giá trị tư tưởng của tác phẩm. Cách trần thuật cũng hết sức tự nhiên, hấp dẫn. Bố cục câu chuyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Kim Lân cũng tỏ ra có thế mạnh khi vận dụng giọng văn mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ gần khẩu ngữ của người bình dân nhưng đã có sự chọn lọc kĩ càng. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thật, sinh động, sắc sảo, đi vào chiều sâu nội tâm với những vận động đa diện, phức tạp.

“Vợ nhặt” đã gợi cho người đọc cảm động về cành đời, số phận của người lao động nghèo trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm thể hiện sâu sắc tinh thần nhân đạo và cách nhìn đúng đắn của nhà văn đối với người lao động. Đồng thời, nhà văn cũng gợi ra được cách giải quyết tốt nhất cho số phận của người lao động: đi theo Cách mạng khi cơ hội đến.

Ý Nghĩa Nhan Đề Mùa Xuân Nho Nhỏ Ngắn Gọn

“Mùa xuân nho nhỏ” – Món quà chi tay với cuộc đời của Thanh Hải vẫn mãi để lại dư vang trong lòng bao con người với tình yêu cuộc sống thiết tha, mãnh liệt. Và đâu đây nó đã ngân vang trong lòng bao thế hệ bạn đọc một tình cảm yêu đời, yêu cuộc sống. Để rồi mỗi chúng ta biết sống đẹp hơn, làm nhiều điều có ý nghĩa cho cuộc đời để còn lại một dấu ấn đẹp dù khi chỉ còn là cát bụi.

Nhan đề của bài thơ làm toát lên vẻ đẹp của thiên nhiên của mùa xuân qua những vần thơ đầy ý nghĩa. Bông hoa tím biếc và âm thanh rộn rã tả một thế giới tràn đầy nhựa sống. Cảnh mùa xuân mang nét riêng của xứ Huế, khác với hình ảnh mùa xuân trong thơ Nguyễn Du, một không gian thoáng rộng với nền cỏ xanh điểm hoa lê trắng hay khác với sắc xuân trong thơ Hàn Mặc Tử: “Làn nắng lửng khói mơ tan” . Mùa xuân trong thơ Thanh Hải là dòng sông xanh trong suốt từ bao giờ. Dòng sông xanh chính là dòng sông Hương thơ mộng với sắc hoa lục bình tím biếc. Một màu tím đặc trưng cho xứ Huế mộng mơ. Khiến cho mỗi người đọc liên tưởng đến mỗi vần thơ của nhà thơ Lê Anh Xuân. Cách đảo ngữ “mọc”, gây ấn tượng về sự vươn lên đầy sức sống cỏ cây – một sức sống tràn trề tươi trẻ, một sự vận động nội tại của thiên nhiên cỏ cây. Cả một không gian cao rộng, nghe tiếng chim hót nàng thơ thốt lên lời gọi của tiếng chim thật thật thiết tha.

Thế là mùa xuân tươi đẹp, rộn ràng đã đến với xứ Huế. Ông yêu cái xứ Huế đến nỗi nghĩ đến xứ Huế với bao tình cảm đẹp, thiết tha, da diết. Thế nên bức tranh thiên nhiên thấm đẫm tình cảm của con người, cảm thấy tình cảm của con người dành cho quê hương đất nước như thấm vào máu thịt. Tâm hồn nhà thơ lại mở rộng để đón nhận, nâng niu, trân trọng vẻ đẹp sức sống nhẹ nhàng đưa tay đón lấy, hứng lấy “Từng giọt long lanh rơi” … Giọt âm thanh hay giọt sương? Cũng có thể là giọt mưa xuân. Bài ca xứ Huế vào xuân nghe tiếng hót trong trẻo véo von, thánh thót của chim chiền chiện. Có lẽ âm thanh ấy sẽ kết đọng lại thành giọt long lanh, lấp lánh và nhà thơ muốn đưa tay nhận từng giọt âm thanh ấy! Rất sáng tạo và đầy gợi cảm!

Nếu như Xuân Diệu đã có lần say sưa trước vẻ đẹp tươi trẻ của mùa xuân “Tháng giêng ngon như một cập môi gần” để rồi hào hứng thốt lên “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” thì Thanh Hải cũng ngất ngây tưởng chừng như hứng được cả tiếng xuân, giọt xuân trong tay.Thanh Hải đã dùng nghệ thuật chuyển hoá cảm xúc của mình. Từ âm thanh của tiếng chim nhà thơ tưởng như thấy được bằng thính giác, đã có thể nhìn thấy nó bằng thị giác rồi hứng cả tiếng chim trong tay bằng xúc giác. Dường như nhà thơ căng hết các giác quan của mình để đón nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời vào xuân. Cảm xúc ấy chỉ có thể có được trong một con người bình yên, không có một chút vướng bận, lo lắng gì cả. Đó cũng là cảm xúc của một con người yêu cuộc đời, yêu cuộc sống biết bao!

Ý Nghĩa Nhan Đề Những Ngôi Sao Xa Xôi Lớp 9

Ý nghĩa nhan đề Những ngôi sao xa xôi 1. Tác giả tác phẩm

Lê Minh Khuê tác giả có thời gian tham gia lực lượng thanh niên xung phong trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, tác phẩm của bà đều viết về giai đoạn chiến tranh này. Khi đất nước thống nhất đề tài của bà có sự thay đổi sang con người và xã hội giai đoạn đất nước đổi mới phát triển.

Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi được tác giả viết vào năm 1972, khi cuộc chiến cứu nước của nhân dân Miền Nam đang trong giai đoạn ác liệt, căm go nhất. Đây là một trong những truyện ngắn thành công nhất của bà trong thời gian này.

2. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề những ngôi sao xa xôi gợi nhớ về những ngôi sao mà Phương Định đã từng nhớ lại, đó là khoảng thời gian yên bình mà cô được sống cùng gia đình mình. Tấm lòng của cô gái trẻ luôn luôn hướng về gia đình, quê hương.

Nhan đề này còn muốn nói lên 3 cô thanh niên xung phong là những ngôi sao trên bầu trời rộng lớn, họ tỏa sáng những vẻ đẹp riêng lấp lánh, diệu kì. Họ là những ngôi sao kì diệu mà ai cũng phải cảm phục khi làm nhiệm vụ trên tuyến đường Trường Sơn.

Nhan đề của truyện còn cho thấy vẻ đẹp trong tâm hồn của những con người thanh niên trẻ, ca ngợi phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam trong thời kì chiến tranh để bảo vệ Tổ quốc.

Vừa rồi là một số giải thích ý nghĩa nhan đề Những ngôi sao xa xôi của tác giả. Hi vọng thông tin trên bổ ích cho các em.

Tóm tắt truyện những ngôi sao xa xôi

Cảm nhận về nhân vật Phương Định

Lớp 9 –