Ý Nghĩa Npv Và Irr / Top 11 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Thanhlongicc.edu.vn

Cách Tính Npv Và Irr

Phần 1. Cách tính NPV và IRR hay DPP

1. Phương pháp NPV

(1) NPV là gì? Công thức tính NPV?

NPV là viết tắt của Net Present value. Nghĩa là Giá trị hiện tại thuần của dự án đầu tư.

NPV được xác định bằng: “Tổng giá trị hiện tại của dòng tiền thuần hàng năm trong tương lai – Khoản vốn đầu tư ban đầu”

– Khi NPV = 0: Doanh nghiệp có thể lựa chọn hoặc từ chối dự án.

Vốn đầu tư ban đầu cho dự án là 6 tỷ

Đầu năm 2, phải bổ sung VLĐ là 0.5 tỷ.

Số VLĐ này sẽ được thu hồi ở năm cuối cùng của DA.

Trong suốt mỗi năm từ Năm 1 – Năm 4, dự án sẽ tạo ra dòng tiền là 2tỷ / năm

Công ty có nên thực hiện dự án không? Biết r = 10%

Lưu ý về cách tính NPV trong excel

2. Phương pháp IRR

(1) IRR là gì?

IRR – Tỷ suất doanh lợi nội bộ (hay còn gọi là lãi suất hoàn vốn nội bộ): là một tỷ lệ mà khi chiết khấu dòng tiền thuần của dự án đầu tư với mức tỷ lệ này sẽ làm cho NPV của dự án đầu tư = 0.

(2) Nguyên tắc lựa chọn

IRR là một trong những thước đo mức sinh lời của một khoản đầu tư. IRR đóng vai trò như là điểm ngưỡng tối đa của chi phí sử dụng vốn (r) đối với dự án.

– Khi IRR < r (chi phí sử dụng vốn): loại bỏ

– Khi IRR = r: có thể lựa chọn hoặc từ chối dự án.

(3) Cách xác định IRR IRR = a + NPVa * (b – a) / (NPVa – NPVb)

Trong đó: a và b là tỷ lệ chiết khấu & a là tỷ lệ nhỏ hơn

Tại r = 10% thì NPV = 0.23

Áp dụng công thức tính NPV tương tự tại phần 2, ta có: tại r = 15% thì NPV = – 0.44

Như vậy: IRR = 10% + 0.23 * (15% – 10%) / (0.23 + 0.44) = 11.7%

3. So sánh phương pháp, cách tính NPV và IRR (IRR vs NPV)

IRR là phương pháp dễ hiểu hơn. Vì khái niệm IRR (tỷ suất sinh lời) sẽ dễ hiểu hơn so với khái niệm NPV. Do vậy, IRR thường được sử dụng nhiều hơn NPV.

Khái niệm IRR có 1 nhược điểm là dễ bị nhầm lẫn với khái niệm ROCE

IRR là số tương đối (%) nên không xem xét đến quy mô của khoản đầu tư. Trong khi những khoản đầu tư nhỏ thường sẽ có IRR cao hơn những khoản đầu tư lớn.

Khi dòng tiền của dự án là “conventional” (1 dòng tiền ra theo sau bởi các dòng tiền vào): 2 phương pháp sẽ đưa ra cùng kết quả lựa chọn dự án. Tuy nhiên, khi dòng tiền là “unconventional”: NPV vẫn áp dụng bình thường nhưng IRR sẽ có thể đưa ra kết quả sai. Vì với dòng tiền “unconventional”, phương pháp IRR có thể đưa ra nhiều kết quả IRR. Nếu người ra quyết định không biết vấn đề này, có thể sẽ đưa ra sai kết quả lựa chọn.

Giả định của NPV thực tế hơn IRR: NPV dựa trên giả định rằng dòng tiền do dự án tạo ra sẽ được tái đầu tư với tỷ lệ sinh lời = chi phí sử dụng vốn (tỷ lệ chiết khấu ban đầu) của dự án. Còn IRR giả định dòng tiền dự án tạo ra sẽ được tái đầu tư với tỷ lệ sinh lời tương đương tỷ lệ IRR ban đầu của dự án. Như vậy, giả định của IRR sẽ khó đạt được trong thực tế.

Khi các dự án là loại trừ lẫn nhau (chỉ 1 dự án được chọn): 2 phương pháp có thể đưa ra kết quả lựa chọn khác nhau. NPV sẽ là phương pháp được ưu tiên sử dụng vì giả định của NPV thực tế hơn IRR.

Khi tỷ lệ chiết khấu thay đổi qua thời gian thực hiện dự án: sự thay đổi này có thể dễ dàng được bao gồm trong phương pháp NPV. Nhưng IRR thì không.

Về cách tính NPV và IRR thì công thức tính toán của NPV đơn giản, dễ thực hiện hơn IRR

Kết luận: NPV là phương pháp có nhiều ưu điểm hơn. Nhưng IRR là phương pháp được sử dụng rộng rãi hơn trong thực tế.

4. Phương pháp Thời gian hoàn vốn có chiết khấu DPP (Discounted Payback Period)

Thời gian hoàn vốn có chiết khấu (DPP): là khoảng thời gian cần thiết để tổng giá trị hiện tại của dòng tiền thuần trong tương lai mà dự án đưa lại = Số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.

Đây có thể coi là một biến thể nhằm khắc phục nhược điểm của phương pháp Thời gian hoàn vốn PP. Do vậy, nguyên tắc lựa chọn dự án và cách áp dụng của DPP sẽ hoàn toàn tương tự PP.

Điểm khác biệt đó là: PP sử dụng dòng tiền thuần của dự án (không có chiết khấu) trong khi DPP thì sử dụng giá trị hiện tại của dòng tiền thuần của dự án (có chiết khấu).

Ưu nhược điểm của DPP

Phương pháp này sẽ thừa hưởng các ưu điểm của phương pháp PP. Ví dụ như đơn giản, dễ thực hiện và tập trung vào tính thanh khoản của dự án. Ngoài ra, bởi vì nó sử dụng dòng tiền chiết khấu. Nên nó còn có ưu điểm là đã xem xét đến giá trị thời gian của dòng tiền. Do đó rút ngắn khoảng cách giữa phương pháp NPV và phương pháp Thời gian hoàn vốn thông thường.

So với phương pháp PP, vì DPP áp dụng kỹ thuật chiết khấu dòng tiền. Nên thời gian hoàn vốn tính theo DPP sẽ dài hơn theo PP. Do vậy, xem xét được nhiều dòng tiền của dự án hơn.

Tuy nhiên cũng như PP, DPP không xem xét đến dòng tiền của dự án sau thời gian hoàn vốn.

Ví dụ: Công ty xem xét 2 dự án A & B. Thời gian hoàn vốn có chiết khấu mong muốn: 2.5 năm. Chi phí sử dụng vốn: r = 10%. Thông tin về dòng tiền dự kiến của các dự án như sau:

Hỏi dự án nào sẽ được lựa chọn theo phương pháp DPP?

Giả định rằng Lợi nhuận trước khấu hao = Dòng tiền thuần của mỗi dự án

Lập bảng tính thời gian hoàn vốn có chiết khấu cho các dự án như sau:

Dự án A

Thời gian hoàn vốn có chiết khấu của A = 2 + 3.058/3.757 = 2.81 năm

Dự án B

Thời gian hoàn vốn có chiết khấu của B = 2 + 207/1.127 = 2.18 năm

Kết luận: Dự án B có thời gian hoàn vốn có chiết khấu <= Thời gian hoàn vốn có chiết khấu mong muốn (2.5 năm). B là dự án được chọn.

Phần 2. Ưu nhược điểm của kỹ thuật chiết khấu dòng tiền (“DCF”)

1. Bao gồm giá trị thời gian của dòng tiền bằng cách chiết khấu dòng tiền tương lai về hiện tại

1. Kỹ thuật này sử dụng các dòng tiền trong tương lai. Mà để dự đoán các dòng tiền này 1 cách chính xác là không dễ dàng

2. Phương pháp NPV (áp dụng kỹ thuật này) sẽ không sử dụng được cho trường hợp khan hiếm vốn (Capital rationing)

3. Xem xét đến thời gian phát sinh của dòng tiền

3. Không đơn giản để ước tính Tỷ lệ chiết khấu dòng tiền

4. Kỹ thuật này được áp dụng rộng rãi nên có thể dễ dàng so sánh giữa các dự án, doanh nghiệp với nhau

4. Tỷ lệ chiết khấu có thể thay đổi theo thời gian thực hiện dự án. Do vậy, việc áp dụng 1 tỷ lệ duy nhất sẽ không phù hợp

Sau bài viết này, hy vọng các bạn đã biết cách tính NPV và IRR, DPP. Trong bài tiếp theo, chúng ta sẽ đi nốt các nội dung còn lại của Chủ đề Đánh giá dự án đầu tư.

Các Chỉ Số Phân Tích Tài Chính Irr, Npv Và Ý Nghĩa Trong Việc Đánh Giá Dự Án

3. Báo cáo tình hình thi hành Luật Chứng Khoán và Hoạt động thị trường chứng khoán

Qua 3 năm thi hành, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn đã đạt được những kết quả quan trọng, cụ thể như sau:

– Các quy định pháp lý hiện hành nhìn chung phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế, tạo nền móng cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực;

– Tăng cường tính công khai, minh bạch của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thị trường, đặc biệt là các công ty đại chúng, thông qua nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin, tuân thủ quản trị công ty. Nâng cao khả năng quản lý, giám sát thị trường của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và TTCK nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, bảo đảm hoạt động thị trường công khai, minh bạch;

– Luật Chứng khoán đã tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi Trung tâm GDCK, Trung tâm Lưu ký Chứng khoán từ đơn vị sự nghiệp có thu thành các pháp nhân thành lập và hoạt động theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Quy định này làm tăng tính chủ động trong hoạt động của Sở GDCK, Trung tâm GDCK, Trung tâm LKCK, tạo vai trò độc lập với cơ quan quản lý nhà nước trong việc tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động tại Sở GDCK, Trung tâm GDCK, Trung tâm LKCK.

– Tạo cơ sở pháp lý trong việc xây dựng hệ thống các tổ chức trung gian hoạt động trên TTCK và các nhà đầu tư chuyên nghiệp, bao gồm các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát, quỹ đầu tư chứng khoán; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức này. Đặc biệt, các thủ tục cấp phép thành lập và hoạt động công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ được rút gọn hơn so với trước đây.

– Từng bước nâng cao điều kiện niêm yết phù hợp với quy mô vốn của các công ty niêm yết tương xứng với các TTCk khu vực. Yêu cầu đặt ra đối với tổ chức niêm yết đã từng bước góp phần minh bạch hóa, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập.

– Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ sở pháp lý để quản lý các công ty đại chúng và hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng: tính đến hết năm 2009, đã có gần 1000 công ty đăng ký là công ty đại chúng theo quy định của Luật Chứng khoán (không bao gồm các công ty niêm yết). Việc đăng ký này tạo cơ sở để các cơ quan quản lý giám sát việc thực hiện các nghĩa vụ công ty đại chúng, bảo vệ quyền lợi của các cổ đông trong công ty.

– Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn mở rộng hơn các quy định về bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, đặc biệt được áp dụng chung cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK Việt Nam, không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài (trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng Điều ước quốc tế đó). Do vậy, thị trường đã thu hút được đông đảo các nhà đầu tư tham gia đặc biệt là nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài. Tính đến hết năm 2007, số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài là gần 7.900 tài khoản, tăng gấp 3 lần so với năm 2006.

– Việc quản lý, giám sát TTCK luôn được coi trọng nhằm đảm bảo cho thị trường hoạt động an toàn và ổn định. UBCKNN đã thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường. Những trường hợp vi phạm về công bố thông tin, giao dịch cổ phiếu nội bộ… đã được xử lý theo luật định để đảm bảo tính công bằng, công khai, minh bạch của thị trường. Thông qua công tác giám sát hoạt động giao dịch đã phát hiện một số trường hợp vi phạm quy định về giao dịch, công bố thông tin, giao dịch cổ phiếu của cổ đông nội bộ… từ đó kịp thời uốn nắn và cú biện pháp xử lý nghiêm những vụ việc vi phạm, bước đầu đã tạo được lòng tin nơi công chúng.

2. Những tồn tại, hạn chế của hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán và một số nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được trong thời gian qua, công tác xây dựng và thực thi pháp luật về chứng khoán cũng đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế. Cụ thể:

a) Phạm vi điều chỉnh của Luật còn hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế

Luật Chứng khoán hiện nay mới chỉ bao hàm những nội dung cơ bản nhất, phù hợp với một thể chế thị trường mới hoạt động với các công cụ chứng khoán, các hoạt động giao dịch cũng như hệ thống quản lý còn đơn giản. Tuy nhiên, khi TTCK ngày càng phát triển, các công cụ phức hợp, hình thức giao dịch phức tạp có xu hướng phát triển, đòi hỏi quy định pháp luật cũng phải được điều chỉnh tương ứng.

Trong quá trình TTCK vận hành, đã phát sinh một số vấn đề mới mà chưa được Luật Chứng khoán điều chỉnh, cụ thể như hoạt động phát hành chứng khoán riêng lẻ; hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán xuyên biên giới, hoạt động kinh doanh chứng khoán của các cá nhân, tổ chức không phải là tổ chức kinh doanh chứng khoán; hoặc các chế tài xử lý đối với một số các hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực chứng khoán.

b) Một số thuật ngữ trong Luật Chứng khoán chưa được định nghĩa hoặc chưa được định nghĩa chính xác dẫn đến các cách hiểu khác nhau hoặc làm hạn chế cho công tác quản lý, giám sát thị trường.

c) Một số quy định tại Luật chưa cụ thể, rõ ràng (như phạm vi các hoạt động mà tổ chức kinh doanh chứng khoán được thực hiện hoặc các tổ chức được thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán) đã dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp khác không được cấp phép thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán nhưng vẫn triển khai các nghiệp vụ tương tự hoặc các tổ chức kinh doanh chứng khoán sau khi được cấp giấy phép thành lập và hoạt động đã tận dụng điều kiện trang thiết bị, cơ sở vật chất của mình để thực hiện những nghiệp vụ khác trong khi không có quy định hướng dẫn. Điều này ảnh hưởng đến tính an toàn trong hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán, hoạt động của thị trường và ảnh hưởng đến lợi ích nhà đầu tư.

– Việc ban hành các quy định pháp lý nhìn chung đều có độ trễ so với mục tiêu đề ra, đồng thời nhiều quy định tại Luật Chứng khoán chưa được hướng dẫn thực hiện

Quy trình xây dựng các văn bản pháp lý về cơ bản tuân thủ đúng các quy định hiện hành, đặc biệt trong vấn đề lấy ý kiến các thành viên tham gia thị trường, ý kiến của các đơn vị, Bộ ban ngành hữu quan. Tuy nhiên, do các quy định trong lĩnh vực chứng khoán đều là các quy định chuyên ngành, đòi hỏi sự am hiểu về thị trường, kinh nghiệm và trình độ chuyên môn sâu. Việc lấy ý kiến để xây dựng văn bản pháp lý trên cơ sở đòi hỏi sự đồng thuận cao, đặc biệt đối với các nội dung chuyên ngành hẹp, mất rất nhiều thời gian. Điều này ảnh hưởng rất nhiều tới tiến độ ban hành các quy định pháp lý điều hành thị trường.

Ngoài ra, nhiều sản phẩm, hoạt động chứng khoán đã được đề cập tại Luật Chứng khoán nhưng chưa được hướng dẫn thực hiện, cụ thể như: (i) nhóm các sản phẩm của thị trường chứng khoán phái sinh như: quyền chọn, hợp đồng tương lai; (ii) nhóm các nghiệp vụ chứng khoán như giao dịch ký quỹ cho vay mua chứng khoán, bán khống và các dịch vụ tài chính khác; (iii) các quy định hướng dẫn về tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu; (iv) văn bản hướng dẫn doanh nghiệp Việt Nam chào bán và niêm yết chứng khoán ra nước ngoài.

– Một số quy định của Luật chứng khoán chưa không phù hợp thực tế nên hiệu lực thi hành không cao. Cụ thể như quy định về mức phạt tiền từ 1% đến 5% tổng số tiền đã huy động trái pháp luật, phạt 1 đến 5 lần khoản thu trái pháp luật đối với hành vi vi phạm quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng.

Qua ba năm thi hành, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn là nhân tố quan trọng góp phần đạt được những kết quả của TTCK Việt Nam. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được một số kết quả như sau:

Hoạt động phát hành cổ phiếu huy động vốn bùng nổ vào năm 2007, khi có gần 200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại được đăng ký với UBCKNN với tổng lượng vốn huy động lên đến gần 40.000 tỷ VND. Về đối tượng chào bán cổ phiếu, cổ phiếu chào bán cho cổ đông hiện hữu chiếm 48,9% trong khi tỷ lệ chào bán cho nhà đầu tư chiến lược và thông qua đấu giá lần lượt là 30,45% và 19,09%. Trong năm 2008, do sự sụt giảm của thị trường chứng khoán, tổng số vốn huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng từ trên 100 đợt chào bán chứng khoán ra công chúng.

Công tác cổ phần hoá DNNN đã được gắn kết với việc huy động vốn từ công chúng đầu tư, góp phần thúc đẩy nhanh việc sắp xếp khu vực DNNN theo tiến trình cải cách nền kinh tế của Chính phủ và huy động vốn cho ngân sách nhà nước. Thực tế, việc gắn kết công tác cổ phần hóa DNNN với công tác tạo hàng cho TTCK là nhân tố chủ đạo quyết định thành công trong việc tạo ra một nguồn hàng phong phú, góp phần thúc đẩy tăng trưởng quy mô của thị trường.

Thị trường chứng khoán đã có sự tăng trưởng không chỉ về quy mô niêm yết mà kể cả tính thanh khoản của thị trường. Tính đến cuối năm 2009, số lượng công ty niêm yết đã tăng lên con số 459 (tăng 267 công ty, tương đương 2,4 lần, so với số lượng công ty niêm yết, đăng ký giao dịch năm 2006). Nếu như năm 2005, bình quân có 667.600 cổ phiếu được giao dịch một phiên, thì năm 2006, con số này tăng lên 2,6 triệu đơn vị (tăng 3,93 lần) và tăng lên 9,79 triệu và 18,07 triệu trong hai năm sau đó. Tốc độ luân chuyển thị trường trong giai đoạn này liên tục tăng từ 0.43 lần năm 2006 lên 0.64 vào năm 2007, 0.68 lần vào năm 2008 và ước đạt 1.13 lần năm 2009.

Giai đoạn 2006-2009 cũng chứng kiến những kỷ lục của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tháng 3/2007, các chỉ số chứng khoán đạt được mức cao nhất. VNIndex đạt mức 1,170.67 điểm và HASTC-Index đạt 459.36 điểm. Trong khi đó, xét về khối lượng giao dịch, tháng 5/2009 là tháng có khối lượng giao dịch lớn nhất, bình quân có 77 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi phiên, với giá trị 2.270,57 tỷ đồng.

Tuy nhiên, sau thời kỳ tăng trưởng nóng và gần như liên tục từ cuối 2006 tới tháng 10/2007, thị trường chứng khoán lại bước sang giai đoạn liên tục giảm mạnh. Các yếu tố tác động mạnh tới thị trường trong giai đoạn này bao gồm các yếu tố kinh tế vĩ mô và yếu tố chính sách. Cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn tại Mỹ lan rộng và có nguy cơ ảnh hưởng nặng tới toàn bộ hệ thống tài chính Mỹ đã dẫn đến một số biến động trong hoạt động đầu tư của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu có những dấu hiệu lạm phát cao, buộc Chính Phủ phải đưa ra các giải pháp để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế. Các chính sách đưa ra trong thời kỳ này được đánh giá là phù hợp với tình hình thực tế, tuy nhiên, đối với TTCK nói riêng, các chính sách này ít nhiều cũng tác động tới hoạt động thị trường và tâm lý của công chúng đầu tư. Cuối năm 2008 và đầu năm 2009, Chính phủ các nước đưa ra hàng loạt các biện pháp kích thích kinh tế để đối phó với khủng hoảng tài chính thế giới. Chính phủ Việt Nam trong bối cảnh đó đã áp dụng biện pháp kích cầu trong nền kinh tế thông qua các gói hỗ trợ lãi suất, gói kích cầu. Cho đến nay, các giải pháp này phần nào đã cho thấy tác động tích cực tới nền kinh tế, trong đó có thị trường chứng khoán. Thị trường đã dần hồi phục kể từ cuối tháng 2/2009 tới nay.

Ngoài ra, nhằm từng bước hoàn chỉnh cấu trúc thị trường, mở rộng thị trường có tổ chức, có sự quản lý của Nhà nước, từng bước thu hẹp thị trường tự do, hệ thống giao dịch UpCom trên SGDCK Hà Nội – hệ thống giao dịch cho các chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết – cũng đã được đưa vào vận hành vào ngày 24/6/2009. Tới nay, đã có 34 cổ phiếu được giao dịch trên hệ thống Upcom với tổng giá trị giao dịch đạt gần 540 tỷ đồng. Giá trị thị trường ngày 30/12/2009 đạt 4.075 tỷ đồng. Sự mở rộng của các thị trường chính thức, có sự quản lý của nhà nước với số lượng ngày càng lớn các tổ chức đăng ký niêm yết, đăng ký giao dịch đang ngày càng thu hẹp của thị trường tự do. Mặc dù còn nhiều loại cổ phiếu giao dịch thị trường tự do (chủ yếu từ các DNNN cổ phần hóa), tính thanh khoản của thị trường này trong năm 2009 đã sụt giảm rõ rệt. Sự kém thanh khoản của thị trường này, cùng với những rủi ro đã bộc lộ trong hoạt động giao dịch cũng đã góp phần làm thu hẹp thị trường tự do.

Trên cơ sở quy định của Luật Chứng khoán, cấu trúc thị trường đang dần được hoàn thiện với sự hình thành hai Sở GDCK và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, là các pháp nhân hoạt động độc lập với cơ quan quản lý nhà nước trên cơ sở chuyển đổi từ các đơn vị sự nghiệp sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH Nhà nước một thành viên.

Việc tách các TTGDCK, TTLKCK ra khỏi cơ quan quản lý nhà nước và chuyển đổi mô hình hoạt động tạo điều kiện cho các Sở GDCK, Trung tâm LKCK chủ động hơn trong quá trình hoạt động, tách biệt hoạt động tổ chức vận hành thị trường ra khỏi chức năng quản lý nhà nước, nâng cao tính tự chủ, độc lập về tài chính, tạo vị thế ngang tầm với các Sở GDCK, TTLKCK trong khu vực, thuận lợi hơn trong quá trình kết nối và hội nhập.

Luật Chứng khoán đưa ra quy định về công ty đại chúng và các nghĩa vụ công ty đại chúng như nghĩa vụ tuân thủ quy định về quản trị công ty, công bố thông tin, chào mua công khai. Đây là một nội dung mới so với trước đây. Việc đặt ra các quy định về công ty đại chúng nhằm đảm bảo tất cả các doanh nghiệp có chứng khoán được công chúng sở hữu rộng rãi (kể cả các doanh nghiệp đã phát hành chứng khoán ra công chúng từ trước khi Luật Chứng khoán có hiệu lực hoặc phát hành riêng lẻ nhiều lần theo quy định của Luật Doanh nghiệp mà trở thành công ty đại chúng) phải tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch, từ đó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, đồng thời tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế.

Tính đến 31/12/2009 đã có khoảng 1000 công ty đại chúng đăng ký với UBCKNN (không bao gồm công ty niêm yết), về cơ bản, các công ty đã tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Cơ quan quản lý nhà nước cũng đã chú trọng tăng cường quản lý công ty đại chúng, nâng cao tiêu chí và chất lượng phát hành, tăng cường tính công khai minh bạch thông qua việc hoàn thiện quy chế công bố thông tin, chủ động đưa vào các yêu cầu soát xét báo cáo tài chính 6 tháng và tăng cường công tác quản trị công ty.

Cho tới thời điểm hiện tại, đã có 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ đang hoạt động tại Việt Nam. Số thành viên lưu ký của TTLKCK là 122 thành viên trong đó có 8 ngân hàng lưu ký và 12 tổ chức mở tài khoản trực tiếp (gồm các ngân hàng thương mại là thành viên đặc biệt của thị trường TPCP chuyên biệt và Sở Giao dịch NHNN).

Về hoạt động của công ty chứng khoán, các công ty chứng khoán đã có những bước thay đổi lớn trên tất cả các mặt như số lượng, quy mô vốn, cơ sở vật chất, nhân sự, quy mô cung cấp dịch vụ và chất lượng hoạt động. Tính từ thời điểm cuối năm 2005 đến nay, có thể thấy rõ những thay đổi như sau:

– Số lượng CTCK tăng gấp 7,5 lần. Số CTCK tính đến thời điểm 30/4/2009 là 105 công ty và hầu hết đã triển khai hoạt động (97 công ty). Quy mô vốn tăng khoảng 3 lần.

– Mạng lưới hoạt động của CTCK tăng nhanh. Trước đây, mỗi CTCK gần như chỉ có 1 trụ sở chính thì đến nay, hầu như đều có thêm trên 1 chi nhánh, phòng giao dịch. Nếu như cách đây 5 năm, mạng lưới hoạt động kinh doanh của các CTCK chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, thì đến nay các công ty đã triển khai mạnh mạng lưới trên địa bàn các tỉnh thành trong cả nước. Nhìn chung, các CTCK đều quan tâm tới việc hoàn thiện cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động kinh doanh của các CTCK. Hầu hết các CTCK đều triển khai những địa điểm khang trang, thuận tiện cho nhà đầu tư và nhiều lợi thế kinh doanh.

– Số lượng người hành nghề tăng nhanh, phù hợp với sự tăng trưởng của các Công ty chứng khoán.

– Các CTCK từng bước triển khai ngày càng đầy đủ và đa dạng các loại hình nghiệp vụ kinh doanh đã được cấp phép; doanh số hoạt động tăng mạnh theo từng năm.

– Về quản trị, điều hành, nhiều công ty, đặc biệt là các công ty đã đi vào hoạt động được một thời gian, đã dần nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động quản trị, điều hành công ty và đã dần đưa công ty vào quỹ đạo hoạt động đúng luật và theo thông lệ quốc tế.

– Về hiệu quả hoạt động của các công ty, có thể thấy rõ là kết quả hoạt động của các công ty chứng khoán phụ thuộc nhiều vào tình hình thị trường: khi thị trường tăng giá, hều hết các công ty đều có lãi, trong đó nhiều công ty có lãi cao và khi thị trường giảm giá mạnh, nhiều công ty thua lỗ. Cho đến thời điểm hiện nay, đã có sự phân nhóm rõ rệt giữa các CTCK, cụ thể 20/105 Công ty chứng khoán lớn nhất nắm giữ tới 80% thị phần các dịch vụ chứng khoán.

– Về hội nhập quốc tế của các CTCK, thể hiện rõ nét nhất ở hoạt động tham gia góp vốn của các tổ chức nước ngoài trong các tổ chức kinh doanh chứng khoán Việt nam:cho đến thời điểm hiện nay, có trên 15 công ty chứng khoán đã chính thức có các tổ chức nước ngoài tham gia góp vốn với tỷ lệ cao nhất là 49% theo quy định hiện hành. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài đầu tư vào các CTCK Việt Nam cũng là những tên tuổi quen thuộc trên các TTCK khác trong khu vực

Mặc dù đạt được những kết quả đáng kể, hoạt động thị trường thời gian qua gặp những khó khăn, hạn chế nhất định:

– Đối với hoạt động huy động vốn: hoạt động chào bán chứng khoán của một số công ty đại chúng còn mang tính tự phát, kế hoạch và mục đích sử dụng vốn của công ty chưa rõ ràng làm giảm hiệu quả của phương án chào bán, số lượng chào bán lớn đã vượt cung thị trường làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị trường; công tác giám sát đối với hoạt động chào bán cũng gặp những khó khăn nhất định; trình độ của các cổ đông còn hạn chế, các cổ đông chưa tự thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình nên ảnh hưởng tới quyền lợi của mình… Tiến trình cổ phần hóa trong thời gian dài trước đây chưa minh bạch, rõ ràng cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng tới hoạt động thị trường chứng khoán.

– Đối với hoạt động của các công ty niêm yết: thời gian qua, nền kinh tế thế giới có những biến động lớn, Việt nam cũng đã chịu những tác động. Điều này đã ảnh hưởng tới việc huy động vốn cũng như hoạt động của các công ty niêm yết. Một số công ty đã lâm vào tình trạng thua lỗ, dẫn đến không đáp ứng điều kiện niêm yết. Thị trường GDCK đã bị tác động không nhỏ bởi các yếu tố của nền kinh tế vĩ mô.

– Đối với hoạt động của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ: trong thời gian qua, việc tăng nhanh số lượng các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đã gây ra một số khó khăn cho hoạt động quản lý. Số lượng công ty chứng khoán tăng gấp 7,5 lần so với thời điểm cuối năm 2005. Về hiệu quả hoạt động, kết quả hoạt động của các công ty chứng khoán phụ thuộc vào tình hình thị trường nên tình hình kinh doanh biến động lớn; hoạt động của các công ty chứng khoá n, công ty quản lý quỹ là không đồng đều và có sự phân hóa rõ rệt. Đối với công ty chứng khoán, 20/105 công ty chứng khoán lớn nhất nắm giữ tới 80% thị phần các dịch vụ chứng khoán; đối với công ty quản lý quỹ, hiện nay, mới chỉ có 33/47 công ty triển khai hoạt động quản lý tài sản, trong đó, mới có 14 công ty huy động được quỹ, trong đó 10 Công ty hàng đầu quản lý tới 93% toàn bộ tài sản của ngành. Sở dĩ thị trường có những phân hóa và còn hạn chế trong hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán là do số lượng các tổ chức tăng quá nhanh, không bảo đảm hiệu quả hoạt động, tiềm ẩn rủi ro hệ thống. Sau khi thành lập và đi vào hoạt động một thời gian, nhiều công ty đã bị thua lỗ, nhiều công ty chứng khoán đứng trước nguy cơ không huy động được đủ vốn để duy trì hoạt động kinh doanh. So với các quốc gia trong khu vực, số lượng công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đã đủ đáp ứng cho hoạt động thị trường với quy mô như Việt Nam. Với 105 Công ty chứng khoán và 47 công ty quản lý quỹ đang hoạt động, Việt Nam hiện đứng đầu các nước trong khu vực về số lượng các tổ chức trung gian thị trường. Tuy nhiên, quy mô thị trường của Việt Nam lại nhỏ hơn rất nhiều so với quy mô hoạt động của các TTCK khác trong khu vực, kể cả về giá trị vốn hóa thị trường, cũng như giá trị giao dịch hàng ngày. Theo kinh nghiệm quốc tế, để quản lý hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán, một yêu cầu đặt ra khi thành lập là phải phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội và thị trường chứng khoán. Vì vậy, cần nâng cao điều kiện thành lập đối với công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ là rất cần thiết, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo an toàn cho TTCK đồng thời phù hợp với thông lệ áp dụng xét điều kiện cấp phép trên thế giới, củng cố hệ thống tài chính sau khủng hoảng…

Những hạn chế trong hoạt động của TTCK thời gian qua xuất phát từ một số nguyên nhân sau:

– Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật còn một số bất cập như đã nêu trên, điều này ảnh hưởng đến công tác điều hành của cơ quan quản lý cũng như hoạt động của các tổ chức, cá nhân tham gia TTCK;

– Thị trường tự do có xu hướng hoạt động trở lại cùng với xu hướng phục hồi của TTCK. Tuy nhiên do khuôn khổ pháp lý chưa gắn kết việc phát hành chứng khoán với niêm yết chứng khoán và tính linh hoạt trong thị trường tổ chức chưa cao nên việc kiểm soát và xoá bỏ thị trường này còn cần nhiều thời gian.

– Tác động của khủng hoảng và khó khăn về kinh tế vĩ mô và TTCK, hoạt động cổ phần hoá, phát hành huy động vốn giảm mạnh, hoạt động của các tổ chức trung gian thị trường gặp nhiều khó khăn.

– Công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm còn hạn chế do hệ thống công nghệ thông tin, quy định pháp luật chưa phù hợp, chế tài, thẩm quyền xử lý của cơ quan nhà nước còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý còn trẻ, nhiều cán bộ mới nên việc xây dựng chính sách, thực hiện nghiệp vụ cũng gặp nhiều khó khăn cần phải có thời gian tích luỹ kinh nghiệm.

Để Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu quả, cần tập trung thực hiện các giải pháp như hoàn thiện hệ thống pháp luật; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thị trường; xây dựng một cp chế kiểm tra, giám sát doanh nghiệp một cách hợp lý, hiệu quả, nhất là về tài chính, kế toán và công bố thông tin để bảo vệ nhà đầu tư. Các giải pháp cụ thể như sau:

Một là, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về chứng khoán và TTCK: Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán và TTCK là giải pháp quan trọng hàng đầu và cần tập trung thực hiện trước để giải quyết những hạn chế, vướng mắc trong cơ chế, chính sách. Khuôn khổ pháp lý về TTCK cần quán triệt nguyên tắc quản lý thị trường mà Tổ chức quốc tế các cơ quan quản lý chứng khoán (IOSCO) đã khuyến nghị, đồng thời phải phù hợp với đặc điểm tình hình của Việt Nam theo xu hướng phát triển và hội nhập.

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Bộ Tài chính đã nỗ lực xây dựng, hoàn chỉnh dự án Luật Chứng khoán để trình Quốc hội ban hành theo đúng tiến độ. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động của thị trường, khắc phục những khó khăn, hạn chế của Luật Chứng khoán hiện hành.

Hai là, cần chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ của cán bộ quản lý, cán bộ hoạch định chính sách, các nhân viên hành nghề đáp ứng được với yêu cầu phát triển lâu dài của thị trường.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thị trường; xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát doanh nghiệp niêm yết một cách hợp lý, hiệu quả nhất là về tài chính, kế toán và công bố thông tin để đảm bảo bảo vệ được các nhà đầu tư.

Các Công Thức Tài Chính Npv, Irr, Thời Gian Hoàn Vốn

Trong bài viết này sẽ giới thiệu các công thức tài chính phổ biến nhất đó là NPV, IRR và cách xác định dòng tiền hoàn vốn. Do nhiều trường khác nhau sử dụng ngôn ngữ khác nhau, chẳng hạn như NPV trong một số giáo trình ký hiệu là NPW vốn một số nơi đặc thù sẽ gọi hơi đặc biệt do đó bạn chỉ cần hiểu ý nghĩa của từng công thức là có thể hoàn thành bài tập bình thường

Các công thức này hữu ích và sử dụng thường xuyên nên HỌC THUÊ NET viết lên đây để tra cứu lại trong khi Viết thuê tiểu luận hoặc luận văn

Công thức và ý nghĩa NPV, IRR

Viết tắt:

PV = Hiện giá, giá trị hiện tại của dòng tiền NPV = Hiện giá thuần, Tổng giá trị hiện tại của dòng tiền thuần CF = Dòng tiền i = Tỷ suất chiết khấu n = Thời kỳ dự án IRR = Tỷ suất nội hoàn PI = Chỉ số thu nhập MIRR = Tỷ suất nội hoàn chỉ định FVCFI = Giá trị tương lai của dòng tiền i = Tỷ suất tái đầu tư trong công thức MIRR

Từ viết tắt: 0 = Tại thới điểm đầu tiên 1 = Cuối kỳ thứ nhất 2 = Cuối kỳ thứ hai 3 = Cuối kỳ thứ ba n = Cuối kỳ thứ tư

KHi làm bài tập thuê thì HỌC THUÊ NET thấy rằng bạn cần phải chú ý đến kỳ một chút. Một số bài tập ghi là đầu kỳ.

Hiện giá thuần hay giá trị của thuần của dòng tiền (NPV):

Ý nghĩa của NPV tức là Net Present Value tức là giá trị hiện tại của thuần và của “dòng tiền”. Bởi vì trong công thức trên bạn thấy các CF1/(1+i)^1 là giá trị hiện tại ở năm thứ nhất.

Tỷ suất nội hoàn (IRR), một số nơi gọi là tỷ suất hoàn vốn Khi NPV = 0 ; IRR = i

Bạn có thể download thêm về thời kỳ hoàn vốn

Thời gian hoàn vốn trong thâm định đầu tư, hay đầu tư dự án là một chỉ tiêu quan trọng. Thời gian hoàn vốn có ý nghĩa rằng muốn thời gian cần thiết để thu hồi được vốn – hay bao lâu thì nhà đầu tư có thể lấy lại được khoản tiền mình bỏ ra đầu tư. Tất nhiên nếu bạn đi đầu tư thì bạn mong muốn mình phải thu hồi vốn càng nhanh càng tốt và do đó thời gian hoàn vốn của một dự án của bạn càng ngắn càng tốt thu lại tiền làm việc khác, để tránh được những biến động, rủi ro khó xác định.

Trong lĩnh vực kinh tế vĩ mô ta còn dùng chỉ tiêu Tỉ suất hoàn vốn đầu tư (ROI – Return on Investment), đây là tỷ lệ giữa hiện giá của thu nhập ròng hàng năm so với hiện giá của vốn đầu tư.

Công thức tính thời gian hoàn vốn:

Thời gian hoàn vốn = (Vốn đầu tư bỏ ra)/(Thu nhập ròng hàng kỳ) = (tháng, quý, năm)

Công thức tính NPV và IRR trong Excel

Đánh Giá Tính Khả Thi Của Dự Án: Npv Vs Irr

Trong việc phân bổ nguồn vốn, ta có thể sử dụng rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá một dự án. Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng. Trong bài viết này tôi xin đưa ra một số nhận định về việc sử dụng hai chỉ số IRR và NPV để đánh giá mức độ khả thi của một dự án.

1. Về NPV: NPV (Net present value) được dịch là Giá trị hiện tại ròng, có nghĩa là giá trị tại thời điểm hiện nay của toàn bộ dòng tiền dự án trong tương lai được chiết khấu về hiện tại:

NPV = giá trị hiện tại của dòng tiền vào (thu) – giá trị hiện tại của dòng tiền ra (chi)

Nếu NPV dương thì dự án đáng giá. Tại sao lại đáng giá, bởi suất chiết khấu đã là chi phí cơ hội của dự án, vì vậy, nếu đã khấu trừ chi phí cơ hội mà vẫn có lời thì dự án có lợi tức kinh tế. Cho nên, khi đánh giá dự án bằng NPV cần quan tâm đến giá trị của suất chiết khấu (thường bằng với lãi suất của cơ hội đầu tư tốt nhất nhà đầu tư đặt được nếu không đầu tư vào dự án đang được đánh giá. Các yếu tố ảnh hưởng tới suất chiết khấu này được phân tích kỹ trong phần sau của bài viết này) và xem NPV có dương hay không. Nếu như NPV dương có nghĩa là khoản đầu tư có lời bởi giá trị của dòng tiền mặt sau khi khấu hao đã cao hơn mức đầu tư ban đầu.

Thông thường NPV không chỉ được coi là chỉ số mà còn được xem là phương pháp tốt nhất để đánh giá khả năng sinh lời của phương án hay dự án vì ý nghĩa nôm na của nó cho biết mức lãi ròng của dự án sau khi đã thu hồi vốn đầu tư ban đầu và trang trải tất cả chi phí (bao gồm cả lạm phát).

Tuy nhiên phương pháp NPV này có nhược điểm là đòi hỏi tính toán chính xác chi phí mà điều này thường khó thực hiện đối với các dự án có đời sống dài. Vì thế trong thực tiễn người ta phát triển chi phí vốn thành tỉ suất chiết khấu hay còn gọi là tỉ suất sinh lợi tối thiểu chấp nhận được – tỷ suất rào (thường do nhà đầu tư kỳ vọng trên cơ sở cân nhắc tính toán đến các yếu tố tác động vào dự án đầu tư). Một nhược điểm khác nữa của NPV đó là không cho biết khả năng sinh lợi tính theo tỉ lệ % do đó ảnh hưởng đến việc khó chọn lựa cơ hội đầu tư.

Tỷ suất rào (tý suất chiết khấu trong các báo cáo Nghiên cứu khả thi)

Tỷ suất rào là tỷ suất hoàn vốn tối thiểu mà tất cả các khoản đầu tư cho một doanh nghiệp cụ thể phải đạt được.

Trước tiên khi tìm hiểu về tỷ suất rào, chúng ta cần phân tích về chi phí sử dụng vốn của một dự án. Nó chính là chi phí bình quân gia quyền của các nguồn vốn khác nhau của tổ chức: cả nợ và chủ sở hữu.

Vốn nợ mà các công ty sử dụng đều có một chi phí gọi là lãi suất phải trả cho các trái phiếu và các giấy nợ khác. Lưu ý rằng vốn góp của các chủ sở hữu cũng là chi phí thực. Chi phí này là chi phí cơ hội – tức là phần mà các cổ đông có thể kiếm được trên phần vốn của mình nếu họ đầu tư vào cơ hội tốt thứ hai ở cùng một mức rủi ro. Ví dụ, nếu nhà đầu tư có 100.000 USD tiền đầu tư vào cổ phiếu Công ty XYZ – một công ty có giá cổ phiếu hay dao động bất thường, chi phí cơ hội của họ cho số vốn đó có thể là 14% – tỷ lệ sinh lời mà họ có thể đạt được cho một vụ đầu tư khác có mức rủi ro tương đương. Vì vậy, đối với một công ty lớn và ổn định, chi phí cơ hội của cổ đông có thể là 10%; còn đối với một công ty công nghệ cao và khá rủi ro thì chủ sở hữu có thể trông đợi tỷ lệ sinh lời 18%. Nói một cách đơn giản thì chi phí vốn là chi phí bình quân gia quyền của các nguồn vốn khác nhau của tổ chức.

Vậy tỷ suất rào hợp lý cho một doanh nghiệp cụ thể là bao nhiêu? Tỷ suất này dao động tùy theo từng công ty. Thông thường, tỷ suất rào được lập trên mức có thể đạt được từ một khoản đầu tư không rủi ro, chẳng hạn như trái phiếu kho bạc.

Cách tính tỷ suất rào:

Tỷ suất rào = Tỷ suất không rủi ro + Tiền phản ánh rủi ro của dự án

Bất cứ nhà đầu tư nào đều mong muốn được đền đáp xứng đáng cho sự không chắc chắn mà họ đã chịu. Về bản chất, các mỗi dự án đều có nhiều yếu tố không chắc chắn. Vì lý do đó, các nhà đầu tư đòi hỏi các dự án tương lai phải chỉ ra được sự hứa hẹn khả dĩ.

Các dự án đầu tư khác nhau sẽ có các tỷ suất rào khác nhau. Với các khoản đầu tư rủi ro thấp thì tỷ suất vào phải thấp hơn mức được áp đặt cho loại đầu tư rủi ro cao hơn. Ví dụ, một dự án thay thế dây chuyền lắp ráp hiện tại hay các bộ phận thiết bị chuyên dụng phải sử dụng tỷ suất rào là 10%, nhưng dự án sản xuất các dòng sản phẩm mới thì phải sử dụng tỷ suất rào là 15%.

2. Về IRR

IRR (internal rate of return) suất thu lợi nội tại. Có nghĩa là suất sinh lợi của chính bản thân dự án, IRR là nghiệm của phương trình NPV=0. Nói cách khác muốn tìm IRR chỉ cần giải phương trình NPV(IRR) =0. Đây là phương trình bậc cao, nếu có sự đổi dấu sẽ có nhiều nghiệm. Còn nếu không thì chỉ có 1 nghiệm.

IRR có thể tính bằng cách nội suy chặn trên chặn dưới, tuy nhiên, nhờ ứng dụng của Excel, việc tính IRR trở nên dễ dàng. Điều quan trọng là hiểu ý nghĩa của IRR. Nếu giá trị này lớn hơn giá trị suất chiết khấu (chi phí cơ hội) thì dự án đáng giá.

Hiểu một cách chung nhất, tỉ lệ hoàn vốn nội bộ càng cao thì khả năng thực thi dự án là càng cao. IRR còn được sử dụng để đo lường, sắp xếp các dự án có triển vọng theo thứ tự, từ đó có thể dễ dàng hơn trong việc cân nhắc nên thực hiện dự án nào. Nói cách khác, IRR là tốc độ tăng trưởng mà một dự án có thể tạo ra được. Nếu giả định rằng tất cả các yếu tố khác của các dự án là như nhau thì dự án nào có tỉ suất hoàn vốn nội bộ cao nhất thì dự án đó có thể được ưu tiên thực hiện đầu tiên.

Phương pháp IRR có ưu điểm là dễ tính toán vì không phụ thuộc chi phí vốn, rất thuận tiện cho việc so sánh cơ hội đầu tư vì cho biết khả năng sinh lời dưới dạng %. Ý nghĩa cốt lõi của IRR là cho nhà đầu tư biết được chi phí sử dụng vốn cao nhất có thể chấp nhận được. Nếu vượt quá thì kém hiệu quả sử dụng vốn. Nhược điểm của IRR là không được tính toán trên cơ sở chi phí sử dụng vốn do đó sẽ có thể dẫn tới nhận định sai về khả năng sinh lời của dự án. Nhà đầu tư sẽ không biết được mình có bao nhiêu tiền trong tay.

Tỷ suất thu nhập nội bộ (IRR) là một công cụ nữa mà các nhà đầu tư có thể sử dụng để quyết định có nên tập trung toàn lực cho một dự án cụ thể, hay phân loại tính hấp dẫn của nhiều dự án khác nhau.

IRR cũng có thể được so sánh với tỉ suất hoàn vốn trên thị trường chứng khoán. Nếu một công ty không thấy dự án nào có IRR tốt hơn mức lợi nhuận có khả năng tạo ra trên thị trường tài chính, công ty đó có thể đơn giản là đầu tư tiền của mình vào thị trường này thay vì thực hiện dự án.

Đánh giá dự án: NPV hay IRR

Nói chung, nhìn IRR thì dễ hình dung vì số % cụ thể, nhìn NPV bằng tiền rất khó diễn dịch. Vì vậy người ta dùng cả 2 cách để đánh giá.

Trước hết nếu xem xét hai chỉ số này trong cùng điều kiện thì tỉ suất hoàn vốn nội bộ và giá trị hiện tại thuần đều cho cùng một kết quả. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp thì IRR lại không hiệu quả bằng NPV trong việc tính toán và chiết khấu dòng tiền. Hạn chế lớn nhất của IRR cũng chính là ưu điểm của nó: chỉ sử dụng một tỷ lệ chiết khấu duy nhất để đánh giá tất cả các kế hoạch đầu tư. Mặc dù việc sử dụng một tỉ lệ chiết khấu duy nhất giúp đơn giản hóa quy trình tính toán, nhưng trong nhiều trường hợp điều đó lại dẫn đến những sai lệch. Nếu một tiến hành đánh giá hai dự án đầu tư, cả hai dự án cùng sử dụng chung một tỉ lệ chiết khấu, cùng dòng tiền tương lai, cùng mức độ rủi ro, và cùng có thời gian thực hiện ngắn, IRR là một cách đánh giá hiệu quả. Tuy nhiên bản thân tỉ lệ chiết khấu lại là một nhân tố động, nó luôn biến đổi theo thời gian. Nếu quy ước sử dụng lãi suất trái phiếu chính phủ làm lãi suất chiết khấu, lãi suất này có thể thay đổi từ 1% đến 20% trong vòng 20 năm, từ đó làm cho tỉ lệ chiết khấu cũng biến động theo. Nếu không có sự điều chỉnh, tức là IRR không tính đến sự thay đổi của tỉ lệ chiết khấu, phương pháp này sẽ không phù hợp với các dự án dài hạn.

Một kiểu dự án khác mà việc áp dụng IRR sẽ không hiệu quả đó là các dự án có sự đan xen của dòng tiền dương và dòng tiền âm. Ví dụ một dự án yêu cầu phải có kinh phí ban đầu là -50,000USD (dòng tiền âm) trong năm đầu tiên. Dự án này sẽ tạo ra 115,000 USD (dòng tiền dương) trong năm tiếp theo, sau đó cần tiếp chi phí đầu tư -66,000USD trong năm thứ 3 vì có sự điều chỉnh lại dự án. Như vậy thì áp dụng một tỉ lệ IRR duy nhất là không phù hợp.

Một hạn chế nữa trong việc áp dụng IRR là phải biết được tỉ lệ chiết khấu của dự án. Để tiến hành đánh giá dự án thông qua IRR thì ta phải so sánh nó với tỉ lệ chiết khấu. Nếu IRR cao hơn tỉ lệ chiết khấu thì dự án là khả thi. Không biết tỉ lệ chiết khấu hoặc tỉ lệ chiết khấu vì lý do nào đó không thể áp dụng cho dự án thì phương pháp IRR sẽ không còn giá trị.

Để khắc phục những hạn chế của phương pháp IRR ta có thể sử dụng NPV.

Ưu điểm của việc sử dụng NPV đó là phương pháp này cho phép sử dụng các tỉ lệ chiết khấu khác nhau mà không dẫn đến sai lệch. Đồng thời cũng không cần phải so sánh NPV với chỉ số nào khác, nếu như NPV lớn hơn 0 có nghĩa là dự án là khả thi về mặt tài chính.

Vậy thì tại sao IRR vẫn được sử dụng phổ biến hơn trong việc tính toán phân bổ nguồn vốn? Có lẽ phương pháp này được ưa thích hơn chỉ vì quy trình tính toán của nó rất đơn giản. Phương pháp IRR đơn giản hoá dự án thành một con số duy nhất từ đó nhà quản lý có thể xác định được liệu dự án này có kinh tế, có khả năng đem lại lợi nhuận hay không. Nhìn chung thì IRR là phương pháp đơn giản nhưng đối với các dự án dài hạn có dòng tiền khác nhau và tỉ lệ chiết khấu khác nhau, các dự án có dòng tiền không ổn định, thì IRR không phải là chỉ số tốt mà NPV mới chính là sự lựa chọn đúng đắn.

Một ví dụ minh hoạ là các dự án giao thông vận tải hoặc khai thác khoáng sản, rõ ràng là sẽ có IRR thấp hơn các dự án trong lĩnh vực dịch vụ, chẳng hạn dự án mở một cửa hàng đồ ăn nhanh, trong khi NPV chắc chắc sẽ cao hơn. Tuy nhiên, NPV cao hơn không có nghĩa là dự án khai thác khoáng sản tốt hơn, vì chắc chắn lượng vốn ban đầu bỏ ra của dự án này cao hơn dự án trong lĩnh vực dịch vụ rất nhiều. Một lần nữa chúng ta thấy rằng IRR và NPV là những công cụ rất tốt nhưng có những điều kiện áp dụng nhất định như đã trình bày ở trên. Vì vậy, khi so sánh hiệu quả của các dự án, cần xem xét bản chất của ngành nghề kinh doanh và chi phí vốn bỏ ra ban đầu để có những so sánh kết luận chính xác.

Kết luận

Khi phân tích đánh giá dự án, cần lưu ý rằng, các chỉ số trên là chỉ tiêu đánh giá tài chính. Hiện nay, những người làm dự án còn quan tâm đến NPV, IRR Kinh tế. Có nghĩa là lượng hoá các đại lượng kinh tế để tính hiệu quả của dự án đối với nền kinh tế. Ví dụ như đầu tư 1 ngôi trường có thể lỗ về mặt tài chính nhưng nếu tính toán các giá trị kinh tế khác có được từ ngôi trường vào thì NPV kinh tế đáng giá. Hoặc dự án đầu tư vào một nhà máy công nghiệp chế tạo có lãi về mặt tài chính nhưng lại làm ô nhiễm môi trường thì NPV kinh tế có thể lại không đáng giá.

Trong nền kinh tế hiện đại, để đảm bảo công bằng và bảo vệ môi trường, xu hướng chung là tất cả các chủ thể hoạt động trong nền kinh tế sẽ phải trả cho các tác động ngoai lai mà họ gây ra với chủ thể khác. Một ví dụ là công cụ kinh tế giấy phép xả thải. Theo đó, các công ty xả thải phải chịu một khoản chi phí nhất định cho việc làm ô nhiễm môi trường chung. Tuy nhiên, để đánh giá NPV hay IRR kinh tế, cần các điều tra xã hôi học và kinh tế rộng lớn, trong đó có xem xét tới các tác động ngoại lai gây ra bởi các tất cả các chủ thể. Tác giả xin được phân tích và đi sâu về các khái niệm và ý nghĩa của các chỉ số trên trong một bài viết khác.