Ý Nghĩa Om / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Thanhlongicc.edu.vn

Ý Nghĩa Chữ “Om” Trong Yoga

Bước chân vào một lớp học Yoga, có một âm thanh kéo dài và liên tục ngân lên mỗi thời điểm bắt đầu và kết thúc của lớp học. Âm thanh văng vẳng, xa xăm ấy được gọi là Om, với cách phát âm “Aumm” kéo dài trong một hơi thở.

Âm thanh này có lẽ không còn xa lạ gì đối với những Yogi (người luyện tập Yoga). Thế nhưng ý nghĩa của biểu tượng này vẫn chưa có nhiều người thực sự biết đến.

Lời mời gọi vũ trụ

Trong tiếng Phạn, Om có nghĩa là vũ trụ, là năng lượng vô tận. Vì vậy những người luyện tập Yoga đọc niệm chú Om mỗi khi bắt đầu để tận dụng nguồn năng lượng từ thiên nhiên để luyện tập và mỗi khi kết thúc để những năng lượng ấy giúp cơ thể thư giãn.

Theo tiếng Phạn, Om có 5 thành phần chính, biểu trưng cho 5 trạng thái nguyên bản của con người, trạng thái vô thức, trạng thái nguyên bản, trạng thái tỉnh, trạng thái mơ mảng, và trạng thái ảo giác. Chính vì vậy mà người Ấn cho rằng tiếng Om là đại diện cho cả một vũ trụ vô cực, vũ trụ ấy không chỉ là vũ trụ bên ngoài mà còn là vũ trụ bên trong của mỗi con người.

Cải hóa con người

Cũng theo bản kinh Vệ Đà đầu tiên của người Ấn Độ, Om là hình thái đầu tiên của vị thần tối cao Brahman, vì vậy nó mang ý nghĩa của vị thần này. Trong khẩu hình AUM, A là sự khởi đầu, sinh, và người tạo ra thần Brahma, U đại diện cho sự tiếp tục của cuộc sống, và thần Vishnu, M là kết thúc, cái chết, và các tàu khu trục thần Shiva.

Theo một nhánh khác của đạo Hindu, OM có nghĩa là Quy mệnh, OM tượng trưng cho thân các vị Phật trong các câu thần chú, OM đóng cánh cửa luân hồi, OM thanh tịnh hóa bản thân, OM là lời cầu nguyện hướng về thân thể của các vị Phật, OM là Trí tuệ thanh thản, an bình, Om cũng là thân , khẩu , ý.

Om là một âm thanh huyền bí và nhiệm màu. Trong Phật giáo, niệm chú Om vô cùng quan trọng trong việc tu tập, cùng với những câu niệm chú khác như Om mani padme hum, giúp cho tâm thanh tịnh và bình an.

Hiennha.com

Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum

Lạt Ma Zopa Rinpoche Thanh Liên dịch

Hai từ này bao gồm toàn bộ con đường dẫn tới Niết bàn – sự giải thoát khỏi đau khổ và nguyên nhân đích thực của đau khổ. Tất cả những con đường của các thừa thấp được bao gồm trong phương tiện và trí tuệ; do đó, chúng được bao hàm bởi mani và padme. Toàn bộ con đường Ba La Mật thừa và con đường Bồ đề tâm đưa tới sự giác ngộ cũng được hoàn thiện bởi phương tiện và trí tuệ; vì thế nó cũng hoàn toàn được bao hàm trong mani và padme. Cuối cùng, toàn bộ con đường Kim Cương thừa – con đường của thừa (cỗ xe) bất khả phân, tantra, hay mật chú cũng được bao hàm bởi những phạm vi này.

Tantra có bốn phần, hay cấp độ. Cấp độ thứ nhất là kriya tantra, nó được chia thành tantra có biểu hiện và tantra không biểu hiện. Loại tantra có biểu hiện là con đường của phương tiện; loại tantra không có biểu hiện là con đường của trí tuệ; toàn bộ con đường kriya tantra được bao gồm trong mani và padme. Những tantra khác thì cũng thế. Nhờ thực hành loại tantra thứ tư là Yoga Tantra cao cấp nhất (maha-anuttara yoga tantra), chúng ta có thể đạt được giác ngộ – tâm toàn giác; trạng thái siêu việt viên mãn trong mọi sự chứng ngộ và được tịnh hóa mọi ô nhiễm – trong một đời người ngắn ngủi của thời đại suy hoại này. Có hai giai đoạn trong Yoga Tantra cao cấp nhất: giai đoạn phát sinh (đôi khi cũng được goi là giai đoạn sáng tạo, phát triển hay tiến triển) và giai đoạn thành tựu (hay hoàn thành). Những giai đoạn này được bao gồm trong mani và padme, phương tiện và trí tuệ. Giai đoạn thành tựu có bốn cấp độ: sự tách biệt của tâm; huyễn thân; tịnh quang và sự hợp nhất. Huyễn thân, con đường của phương tiện, được bao gồm trong mani; tịnh quang, con đường của trí tuệ, được bao gồm trong padme. Cũng thế, có hai loại tịnh quang: tịnh quang ý nghĩa và tịnh quang ví dụ.

Để chuyển hóa tâm thức thành con đường, trước tiên chúng ta phải đặt nền móng là ba phương diện chính yếu của con đường: sự từ bỏ, Bồ đề tâm và trí tuệ chứng ngộ tánh Không. Sự từ bỏ samsara (sinh tử) là tư tưởng hết sức nhàm chán sinh tử nhờ nhận ra rằng nó chỉ có bản tánh đau khổ; thấu hiểu rằng dưới sự sai sử của những tâm thức và nghiệp tiêu cực hỗn loạn, các uẩn của thân và tâm ta thì đau khổ tự bản chất. Thường thì chúng ta không tỉnh giác về điều này. Chúng ta có ảo tưởng rằng những sự vật có bản chất vô thường thì thường hằng; những gì nhơ bẩn tự bản chất thì trong sạch; những gì đau khổ tự bản chất thì vui thú; và những gì không có chut hiện hữu nào từ khía cạnh riêng của nó, là những gì chỉ đơn thuần được dán cho một danh hiệu, thì hiện hữu tự khía cạnh riêng của nó. Đây là quan điểm thông thường, ảo tưởng của chúng ta về thực tại. Sự từ bỏ là việc nhận ra sự thật là mọi sự hiện hữu có điều kiện đều có bản chất là đau khổ.

Chúng ta giống như những con bướm đêm nhìn thấy một ngọn lửa hừng hực như một nơi chốn đẹp đẽ để vui sống mà không hiểu được điều gì sẽ xảy ra khi chúng chạm vào nó. Chúng ta hoàn toàn ảo tưởng. Thậm chí nếu ngọn lửa bị che phủ thì chúng vẫn ráng hết sức để lao vào cho bằng được. Cho dù chúng cảm thấy lửa nóng, chúng vẫn cố gắng lao vào. Chúng cho rằng sự hy lạc phi thường nằm nơi phần chói sáng. Do đó điều gì sẽ xảy ra khi chúng thực sự lọt vào trong đó? Chẳng có chút xíu gì trong những điều chúng đã hy vọng. Hoàn toàn là một sự đối nghịch. Chừng nào mà chúng ta còn ở trong luân hồi sinh tử, cuộc đời ta cũng liên tục lầm lạc như thế.

Chúng ta không hình dung rằng tự bản chất cuộc đời ta thì hoàn toàn đau khổ; chúng ta theo đuổi tâm thức ảo tưởng của mình như thể nó đúng đắn một trăm phần trăm, như thể những ý niệm sai lầm của ta thật hoàn hảo. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng ở những kế hoạch, những ảo tưởng của ta. Chúng ta tin chắc rằng những ý niệm sai lầm của ta thì hoàn toàn chân thật. Nó giống như việc nhìn một môi trường cháy đỏ là một công viên đẹp tuyệt trần và cố gắng lao vào đó, không nhận ra rằng ta sẽ bị thiêu đốt. Chúng ta nhìn cõi giới khổ đau này như một công viên tráng lệ.

Sự từ bỏ là việc nhận ra rằng luân hồi sinh tử của riêng ta chỉ là khổ đau tự trong bản chất; nhận ra rằng việc sống trong sinh tử thì giống như bị nhận chìm bởi những ngọn lửa hồng và cảm thấy không chịu nổi việc sống trong đó một giây phút mà không đạt được giai thoát. Khi ta cảm thấy nỗi khổ của riêng ta không thể chịu đựng nổi và tư tưởng tìm kiếm sự giải thoát xuất hiện một cách tự nhiên và liên tục, thì khi ấy chúng ta chứng nghiệm được sự từ bỏ luân hồi sinh tử.

Khi chúng ta thay đổi đối tượng và nghĩ về những người khác thay vì chính mình thì cảm xúc trở thành lòng bi mẫn. Khi đã có niệm tưởng mạnh mẽ về sự từ bỏ luân hồi sinh tử của riêng ta, khi ta quán chiếu về việc những người khác bị tóm bắt trong sinh tử và đau khổ, chúng ta bắt đầu cảm thấy một lòng bi mẫn kỳ lạ, mãnh liệt, không thể chịu đựng nổi; chúng ta cảm thấy không chịu nổi việc những người khác đang nằm trong sinh tử dưới sự kiểm soát của nghiệp và những niệm tưởng rối loạn của họ. Khi ta thấy những người khác bị tóm bắt trong sinh tử thì ta cảm thấy hết sức bất nhẫn, giống như bị một ngọn giáo đâm thủng trái tim, như một bà mẹ cảm xúc khi đứa con thân yêu duy nhất của bà rơi vào đống lửa. Thật không thể kham chịu nổi những điều như thế.

Theo cách đó, ta phát khởi lòng bi mẫn mãnh liệt phi thường ước muốn chúng sinh thoát khỏi đau khổ. Chúng ta không thể ngơi nghỉ mà không làm điều gì đó để cứu giúp họ. Không có cách nào để nghĩ về chính ta, hạnh phúc của riêng ta; không có cách nào để tư tưởng quan tâm tới bản thân ta xuất hiện. Chúng ta không thể sống lặng lẽ mà không làm điều gì để giải thoát chúng sinh. Ta không thể chịu nổi việc họ phải ở trong sinh tử cho dù chỉ một giờ hay một phút. Đúng như thế, với việc chứng nghiệm sự nhàm chán, chúng ta không thể đứng yên mà không thành tựu sự giải thoát của riêng ta, không thể chờ đợi dù chỉ một giây phút, mà giờ đây mục tiêu của chúng ta được nhắm vào những người khác. Khi ước muốn này xuất hiện, chúng ta chứng ngộ lòng bi mẫn vĩ đại – ước muốn tất cả chúng sinh có thể thoát khỏi mọi nỗi khổ và quyết định bản thân mình sẽ thực hiện ước muốn này.

Bồ đề tâm phát khởi từ thái độ này. Chúng ta tự hỏi: “Giải pháp lúc này là gì? Ta nên làm gì? Phương pháp nào tốt nhất cho ta để giải thoát tất cả chúng sinh thoát khỏi đau khổ?”. Chúng ta đi tới kết luận là phương cách duy nhất mà ta có thể dẫn dắt chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi đau khổ là thành tựu tâm toàn giác.

Do đó, ước muốn phát triển một tâm toàn giác xuất phát từ cội gốc của lòng bi mẫn. Từ lòng đại bi, tâm vị tha của sự giác ngộ – Bồ đề tâm – được phát triển. Ở đây lòng bi mẫn phát khởi tự nhiên đối với tất cả chúng sinh không có sự phân biệt giữa bằng hữu, kẻ thù và những người xa lạ – là những người giúp đỡ ta, những người đối xử tệ bạc và chỉ trích ta, và những người không giúp đỡ cũng không làm hại ta. Đối tượng của nó là toàn bộ chúng sinh đau khổ và lòng bi mẫn ước muốn tất cả chung sinh thoát khỏi mọi sự che chướng. Lòng đại bi ước muốn tất cả những ai không có hạnh phúc vô song của sự giác ngộ được thành tựu trạng thái của tâm toàn giác và tự mình nhận lãnh trách nhiệm trong việc nhìn thấy họ thực hiện điều đó.

Với Bồ đề tâm phát khởi tự nhiên, chúng ta cảm thấy như người mẹ mà đứa con thân yêu duy nhất của bà bị rơi vào ngọn lửa. Chúng ta không thể đứng yên. Ngày lẫn đêm, trong mọi lúc, tâm vị tha của sự giác ngộ phát khởi không chút nỗ lực. Vào lúc đó, chúng ta đã chứng ngộ Bồ đề tâm. Người chứng ngộ Bồ đề tâm được gọi là người “may mắn”. Một người như thế thật minh triết, thiện xảo và bi mẫn. Những người trong tâm có một trái tim hết sức tốt lành, Bồ đề tâm, thì thực sự tuyệt hảo.

Trong phạm vi thế tục, những người có thể kiếm rất nhiều tiền, có thể giết chết kẻ thù, những người có nhiều căn nhà ở mọi nơi, được coi là người tài giỏi, khéo léo và khôn ngoan. Những người có thể lừa gạt người khác để bồi đắp cho thanh danh hay hạnh phúc của mình được cho là khôn ngoan, tài giỏi và tự lực. Những ý niệm này hoàn toàn sai lầm. Cho dù bạn có thể tự giải thoát mình khỏi sinh tử bạn vẫn không hoàn tất công việc của bạn đối với bản thân hay những người khác. Vì thế, những Bồ tát không tất yếu là thiện xảo hay bi mẫn, cho dù các Ngài có thể tự giải thoát bản thân các Ngài ra khỏi sinh tử. Do đó, trí tuệ của việc chứng ngộ tánh Không được thực hành sau sự chứng ngộ Bồ đề tâm.

Như thế, sau khi tâm thức bạn được tu hành tốt đẹp trong con đường tổng quát, bạn nhận lãnh sự nhập môn (quán đảnh) từ một Guru kim cương đầy đủ phẩm tính, là vị có thể ban những nhập môn Yoga Tantra cao cấp nhất. Một khi nhờ việc nhận lãnh bốn loại nhập môn Yoga Tantra cao cấp nhất mà tâm bạn được thuần thục, bạn tu hành tâm thức bằng cach thiền định về hai con đường của nó: những con đường tiệm thứ của sự phát triển và thành tựu. Khi tâm bạn đạt tới cấp độ tịnh quang, ví dụ, bạn giải thoát khỏi sự hiểm nguy của cái chết – không có cái chết không được kiểm soát, không có việc chết mà không có sự chọn lựa.

Như tôi đã đề cập ở trên, tịnh quang được biểu thị bởi padme, trí tuệ, và huyễn thân được biểu thị bởi mani, phương tiện. Nếu bạn có thể đạt tới giai đoạn này, bạn có thể đạt được giác ngộ trước khi chết, nhưng nếu bạn không thể, bạn có thể thành tựu tốt đẹp như thế sau khi chết, trong giai đoạn trung ấm, như nhiều Lạt ma cao cấp và yogi vĩ đại như Milarepa – bậc đã giác ngộ trong một đời.

Công đức phải tích tập trong ba vô lượng kiếp bằng cách đi theo con đường Ba la mật thừa có thể hoàn toàn được tích tập trong một đời ngắn ngủi bằng cách thiền định về huyễn thân. Tịnh quang là thuốc chữa lành cho cái thấy nhị nguyên; những niệm tưởng hỗn loạn và thậm chí cái thấy nhị nguyên vi tế có thể hoàn toàn ngừng dứt bằng cách thiền định về tịnh quang với sự hỗ trợ của công đức rộng lớn mà bạn tích tập bằng sự thiền định về huyễn thân. Theo cách này, bạn thành tựu sự hợp nhất thân hoàn toàn thiêng liêng thanh tịnh và tâm linh thánh của vị Phật hay Bổn Tôn mà bạn đang thực hành và trở thành một vị Phật.

Khi mặt trăng mọc, nó không cần phải nỗ lực để ánh phản chiếu của nó xuất hiện trên mặt nước: “Ta sắp phản chiếu trong mọi mặt nước trên Trái đất”. Bất kỳ nơi đâu có nước, ánh phản chiếu của mặt trăng tự động xuất hiện. Tương tự như thế, sau khi bạn trở thành một vị Phật, sau khi bạn thành tựu Bổn Tôn mà bạn từng thực hành, bạn sẽ làm việc một cách tự nhiên không cần cố gắng cho lợi ích của tất cả chúng sinh. Bạn sẽ làm việc liên tục với thân, khẩu và ý thiêng liêng của bạn để dẫn dắt chúng sinh bao la như không gian tới hạnh phúc vô song của tâm toàn giác.

Đây chỉ là một giải thích ngắn gọn về ý nghĩa của thần chú OM MANI PADME HUM, nhưng tôi hy vọng là từ đó bạn có thể nhận ra làm thế nào mani và padme – phương tiện và trí tuệ – bao gồm toàn bộ con đường tiệm thứ đưa tới giác ngộ.

Vậy thì, nếu tâm bạn như một tảng đá thì nó giống như đất không được chăm bón; nó không được chuẩn bị tốt. Cho dù bạn gieo trồng những hạt giống, chúng sẽ không phát triển. Nếu tâm bạn vị kỷ, cứng cỏi, ngập đầy sự sân hận và bất mãn, giống như sắt thép, giống như một ngọn núi đá, gay gắt, xấu xa, thì cho dù bạn mong muốn đạt được giải thoát hay sự giác ngộ viên mãn, con đường mà mani và padme bao hàm sẽ không phát triển trong đó. Đất cần được nước tưới mát và chứa đựng những khoáng chất và phân bón – nhờ thế những sự vật mới có thể phát triển trong đó. Cũng thế, tâm hiện tại của bạn cần thay đổi từ trạng thái đặc cứng, xấu xa, khó chịu của nó. Nó cần được chuyển hóa, trở nên mềm mại – nó cần những sự ban phước Đức Phật Đạo sư.

Cuối cùng, điều còn lại cần giải thích là om. Khi thực hành và thành tựu con đường phương tiện và trí tuệ trong tâm bạn được biểu hiện bởi mani và padme – sự tịnh hóa mọi che chướng, nghiệp tiêu cực và ý niệm bất tịnh, hay cái thấy, của thân, khẩu và ý. Khi thân, khẩu và ý của bạn được tịnh hóa như thế, chúng trở thành thân, khẩu và ý kim cương của Đức Đạo sư Chenrezig.

Chữ om (Phạn ngữ hay Tây Tạng) có ba phần. Thân của chữ này là ah, âm mẹ. Trên nó là một đường gợn sóng được gọi là (trong tiếng Tây Tạng) một naro, nguyên âm biến đổi âm “ah” thành “o”. Trên đó là một số 0 nhỏ, nó thêm vào âm “m”. Ba thành phần này thêm vào cho “om” và biểu hiện ba kaya (thân), hay thân, khẩu và ý kim cương. Những ý niệm bất tịnh của bạn về thân, khẩu và ý chuyển hóa thành thân, khẩu va ý kim cương hoàn toàn thanh tịnh của Đức Chenrezig, Đấng Bi mẫn vĩ đại. Như thế, om có nghĩa là sự giác ngộ.

Như vậy, đây là ý nghĩa của OM MANI PADME HUM; sự bắt đầu, hay nguyên nhân, của con đường, bản thân con đường, và kết quả. Nó giống như một cái cây với gốc, thân và quả. OM MANI PADME HUM cũng bao gồm mọi sự hiện hữu – sự duyên sinh và tánh Không: mani và padme. Mọi sự hiện hữu được gồm chứa trong hai chân lý; mọi điều này được bao hàm trong mani và padme: chân lý tuyệt đối trong padme, và chân lý quy ước, chân lý của tâm hoàn toàn bị ngăn che, trong mani.

Cách này hay cách khác, có một sự khác biệt khi bạn trì tụng thần chú của vị Phật đặc biệt này, hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật – lòng đại bi không thể chịu đựng nổi nỗi khổ của chúng sinh và đưa dẫn họ thoát khỏi nó. So với lòng bi mẫn mà ta dành cho bản thân mình thì lòng bi mẫn này lớn hơn hàng trăm ngàn lần. Không thể có một sự so sánh. Và lòng bi mẫn vô hạn này của tất cả chư Phật hiển lộ trong phương diện đặc biệt này mà ta gọi là Đức Chenrezig, Vị Phật Từ Thị (Nhìn Chúng Sinh Với Đôi Mắt Bi mẫn).

Do bởi lòng bi mẫn của Ngài, chính Đức Phật đã thành tựu Đại Niết bàn, phạm vi của an bình vĩ đại, không chút chọn lựa, được kết chặt bởi lòng bi mẫn. Chúng ta thì trái ngược lại: không chọn lựa, bị buộc chặt bởi những tư tưởng ích kỷ, chúng ta mang lại tai họa cho chúng sinh khác và thậm chí cho cả bản thân ta. Được kết buộc bởi lòng bi mẫn, chư Phật hiển lộ trong phương diện Báo thân đối với các Bồ tát cao cấp và trong phương diện Hóa thân đối với những Bồ tát bình thường. Đối với chúng sinh bình phàm, các Ngài hiển lộ trong thân tướng của một tu sĩ, như Đưc Đạt lai Lạt ma, hay một vị vua; trong những thân tướng khác nhau, bất kỳ điều gì cần thiết. Nếu có một biểu thị sẽ điều phục chúng sinh thì đó là cách các Ngài sẽ hiển lộ – như một quan tòa, một tướng lãnh hay thậm chí như một đồ tể hay một người khùng điên; như một người mù hay hành khất để làm cho những người khác tích tập công đức bằng cách thực hành lòng bác ái và nhờ đó tạo nên nguyên nhân cho hạnh phúc. Nếu một vài chúng sinh cần được dẫn dắt theo lối đó, các Ngài sẽ hiển lộ như một người giàu có; nếu một người khác cần được hướng dẫn trong một phương diện đặc biệt, và nếu đó là cách thế duy nhất để điều phục tâm thức của người đó, thì do bơi sự tham luyến mãnh liệt của anh ta, các Ngài sẽ hiển lộ như một gái điếm. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tuyên bố trong giáo lý của Ngài: “Ta sẽ không hiển lộ như tất cả những điều này”. Ngài nói, “Ta không tham đắm nhưng ta hiển lộ như có tham luyến; ta không mù nhưng hiển lộ như mù lòa; ta không què nhưng hiển lộ như què quặt; ta không điên nhưng hiển lộ như khùng điên; ta không chút giận dữ nhưng hiển lộ như sân hận. Trong tương lai nếu ta hiển lộ trong những cách thế như thế, sẽ không chúng sinh nào nhận ra điều này”. Tuy nhiên, để đưa dẫn chúng ta, Ngài đã hiển lộ là Đấng Ngàn Tay Ngàn Mắt (Thiên Thủ Thiên Nhãn) và thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thì có phần khác biêt với những thần chú khác. Những thần chú khác rất mạnh mẽ nhưng thần chú này có một vài tính cách hay tác dụng đặc biệt – trong khi nó được trì tụng thì tâm thức trở nên an bình và bi mẫn hơn nữa một cách tự nhiên; tư tưởng làm lợi lạc người khác phát khởi tự nhiên và hành giả bớt có tư tưởng tự-quy.

Thông thường thì những người bình thường trì tụng OM MANI PADME HUM có một trái tim tốt lành cho dù họ không thấu hiểu giáo lý hay thiền định về con đường tiệm thứ dẫn tới giác ngộ. Điều này xảy ra hoàn toàn nhờ vào niềm tin nơi Đức Phật Bi Mẫn, Đấng Bi mẫn vĩ đại và việc trì tụng thần chú của Ngài. Bạn cần có một trái tim tốt lành ngay cả để có được hạnh phúc trong đời này, sự an bình của tâm hồn trong đời sống hàng ngày. Một trái tim tốt lành là điều vô cùng cần thiết; nó là cách thế duy nhất. Việc trì tụng thần chú này rất ích lợi. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tâm thức.

Khi bạn trì tụng thần chú OM MANI PADME HUM bạn không nên cảm nhận thái quá về thân tướng của Đức Chenrezig mà nên cảm nhận về tinh túy hay bản tánh của Ngài. Nếu bạn không thoải mái khi quán tưởng Ngài ở trên đỉnh đầu bạn thì hãy quán tưởng Ngài ở trước mặt. Hãy quán tưởng lòng đại bi đối với tất cả chúng sinh hiển lộ trong phương diện ngàn tay ngàn mắt. Bản tánh của thân linh thánh của Ngài là ánh sáng. Ngài đang mỉm cười và đây bi mẫn, đôi mắt từ ái nhìn thẳng vào bạn – một chúng sinh đau khổ, lầm lạc – và cũng nhìn tất cả chúng sinh khác. Nếu bạn có thể làm được, hãy quán tưởng một chữ HRIH trên một đĩa mặt trăng nằm trên một bông sen tám canh trong trái tim Ngài. Từ đây, những tia cam lồ phóng ra và đi vào bạn, tịnh hóa bạn về mọi lỗi lầm, đặc biệt là thái độ ích kỷ, là chướng ngại chính cho việc phát triển Bồ đề tâm của bạn. Trong khi quán tưởng theo cách này, hãy trì tụng OM MANI PADME HUM trong mức độ bạn có thể.

theo Báo Giác Ngộ Online

Ý Nghĩa Hình Xăm Om (Tiếng Phạn)

Theo Từ Điển Phật Học của Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách thì OM (có khi được viết là AUM), phát âm theo tiếng Việt là “ôm” kéo dài âm Ô. Chữ này là biểu tượng âm thanh cao quý và trọn vẹn nhất trong Ấn Độ giáo, được một vài trường phái Phật Giáo, nhất là Kim Cang xem như một Mantra.

OM được xem là tượng trưng của cả hai: SẮC & ÂM.OM là âm thanh tượng trưng cho sức mạnh của tâm thức nội tại, của Phật tính trong thế giới giả tạm, trong ảo ảnh (Mãya) này.

Chữ OM được biểu diễn bằng ba vòng cung và một chấm nhỏ. Ba vòng cung biểu diễn sắc thể, ý thức và vô thức. Chấm nhỏ nằm ngoài ba vòng cung đó biểu hiện trí huệ cao nhất dung chứa cả ba. Hình dạng của chữ OM là một biểu hiện cụ thể của Chân Như. Không có khái niệm hay vật thể nào trong vũ trụ có thể tồn tại độc lập, tất cả đều là biến thể của một Chân Tâm duy nhất, có liên hệ với Chân Tâm đó và vì vậy chúng liên hệ với nhau.

Hãy nhìn kỹ chữ OM, ta thấy 3 đường vòng cung, một hình bán nguyệt và một dấu chấm. Các dạng này được xem nằm trong một thể thống nhất. Ba đường vòng cung được nối với nhau, diễn tả 3 tâm trạng (avastha): tỉnh (jagrat, vais vanara); mộng (svapna); say ngủChân Tâm là trạng thái thứ tư (turiya), đứng trên và là nền tảng của ba trạng thái bên dưới. Vòng bán nguyệt chỉ sự vô cùng và dấu chấm riêng lẻ chỉ óc suy luận không thể tiếp cận được Chân Tâm. (susupti). Dấu chấm và hình bán nguyệt đứng rời, diễn tả

Giải thích đơn giản đi 1 chút :

Ðây là 1 kí hiệu tượng trưng cho Brahman ( là một một thánh thần tối thượng của Ấn Độ giáo ) . Brahman là nền tảng linh thiêng cho tất cả vật chất, năng lượng, thời gian, không gian, các thể sống , và tất cả những gì vượt khỏi vũ trụ này. ( Hiểu nôm na là Đấng tạo hóa có quyền lực tối cao )

Đây là âm tiết trong kinh tiếng Phạn cổ Chữ Tất Đàm, Ấn Độ – mà bây giờ chỉ được sử dụng cho các mục đích đặc biệt ở Đông Á Phật giáo bí truyền ( nhưng e thấy trên mạng xăm hình này khá nhìu , hình như nó còn xuất hiện trong phim ” Bẫy Rồng ” thì phải ..??!! ^^ ) . Đối với các Phật tử, biểu tượng này có ý nghĩa rất đặc biệt , nó đại diện cho vẻ đẹp và nhiều ý nghĩa .

Xét theo lý thuyết thì kí hiệu này mang đậm tính triết học sâu sa , thể hiện các nền tảng của nó qua từng nét chữ củ thể , kí hiệu hình bán nguyệt mở phía trên tượng trưng cho sự vô hạn , vượt qua giới hạn hiểu biết của con người , nó còn đại diện cho từ “nhất ( một)” vốn là âm thanh đơn giản và cơ bản nhất trong tiếng Phạn …..

Xét trên thực tế , ký hiệu OM này có rất nhiều định nghĩa tùy thuộc vào nhiều yếu tố và nhận thức của từng người , nhưng nói chung nó đại diện cho 1 vị thần tối cao và đáng kính trọng nhất ( có thể hiểu là Đức Phật trong Phật giáo – hình thứ 2 có đó ….^^ ) Nó là một biểu tượng rất đặc biệt có ý nghĩa to lớn. mình chỉ biết đến thế , mình nghĩ đây đáng là 1 tác phẩm ý nghĩa để bạn thực hiện !

Vòng cung lớn (số 1) diễn tả tâm trạng thông thường của con người, đó là hoạt động tiếp xúc với ngoại cảnh. Vòng số 2 diễn tả giấc mộng, đó là tâm thức nội tại, do quá trình suy luận hình thành, không phụ thuộc vào ngoại cảnh và được xem là cầu nối giữa vòng 1 và vòng 3. Vòng số 3 cao nhất diễn tả tầng tiềm thức, đó là tâm trạng con người say ngủ. Vòng này cũng chỉ là giai đoạn tiếp nối, nó gần với tâm trạng tuyệt đối nhất. Tâm trạng tuyệt đối chính là dấu chấm, nó chiếu rọi và chế ngự 3 tầng tâm thức kia, được gọi đơn giả là “Thể thứ tư” (turiya) và là nguồn gốc của tất cả. Chỉ có những người tu hành đã vượt qua ba tâm thức thô thiển trước mới có thể tiếp cận “Thể thứ tư” này

Tìm Hiểu Ý Nghĩa Của Hình Xăm Chữ Om

Chữ om trong tiếng Phạn là câu mở đầu trong thần chú. Ý nghĩa hình xăm chữ om mang đến sự linh thiêng, nhiệm màu, che chở về mặt tâm linh cho người chủ sở hữu nó.

Mọi hình xăm trên cơ thể đều là điểm nhất gây sự chú ý với người đối diện và thể hiện cá tính, phong cách, con người của chủ sở hữu. Nhưng bên cạnh đó nó còn thể hiện được niềm tin, tín ngưỡng của bản thân. Hình xăm chữ Om là một sự lựa chọn rất tốt vì nó chứa đầy cảm hứng trong đó nếu. Bạn đang muốn xăm hình chữ Om và tìm hiểu ý nghĩa hình xăm chữ Om? Hãy đọc bài viết này để hiểu rõ hơn.

Ý nghĩa hình xăm chữ Om

Hình xăm chữ Om có một vị trí quan trọng trong nghệ thuật xăm hình , biểu tượng xuất hiện phổ biến ở cả phương Đông mà còn cả phương Tây.

Om là một lời kinh trong tiếng Phạn được dùng trong lúc cầu nguyện “” Om Mani Padme Hum ” nó được tôn kính ở tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo. Biểu tượng này tượg trưng cho sự sống và thể hiện tâm linh tín ngưỡng sâu sắc. Om mang biểu tượng tinh thần cũng như thẩm mỹ vì nó là một dòng chảy đẹp với những đường cong uyển chuyển, biểu hiện cho chu kỳ sự sống và cái chết.

Om là nguồn gốc xuất hiện của toàn bộ vũ trụ. Được ví như là âm thanh đầu tiên của cuộc sống . Nó đại diện cho niềm tin của con người đối với tâm linh và tín ngưỡng.

Vị trí nên xăm chữ Om

Hình xăm chữ Om biểu thị sự tín ngưỡng của người xăm nó nên vị trí xăm hình là vô cùng quan trọng. Khi bạn quyết định lựa chọn xăm chữ Om thì bạn phải suy nghĩa kỹ và lựa chọn vị trí cho phù hợp để nó có thể trở thành một tác phẩm nghệ thuật và mang một ý nghĩa tâm linh sâu sắc.

Những vị trí nên xăm hình chữ Om là cổ tay, cẳng tay, mu bàn tay, lưng, gáy ngực và vai. Những vị trí nên tránh xăm hình chữ Om là mắt cá chân hay bàn chân vì đây là những vị trí thấp nó sẽ gây ảnh hưởng tới những người theo duy tâm này.

Địa chỉ tiệm xăm uy tín để có được hình xăm chữ Om như ý

Với hình xăm chữ Om biểu tượng của tín ngưỡng và tâm linh do đó bạn không nên tùy tiệm xăm mà phải tìm hiểu trước thật kỹ về ý nghĩa, vị trí của nó cũng như phải tìm được một mới có được một hình xăm chữ Om chuẩn nhất. Nếu bạn đang muốn sở hữu một hình xăm chữ Om mà không biết tìm tiệm xăm nào đáng tin cậy thì bạn hãy đến với Đỗ Nhân tattoo studio đây là địa chỉ đáng tin cậy được rất nhiều bạn trẻ lựa chọn để xăm hình. Với những thợ xăm dày dặn kinh nghiệm và lâu năm chắc chắn không làm bạn thất vọng. Các bạn hãy liên hệ ngay Đỗ Nhân tattoo để được tư vấn hình xăm chuẩn với cá tính của mình nhất. Hoặc liên hệ Đỗ Nhân Tattoo Studio để tìm hiểu kỹ hơn về nghệ thuật xăm hình và những thiết kế độc đáo mà Đỗ Nhân tattoo đang có.

Ý Nghĩa Của Hình Xăm Chữ Om Và Những Ý Nghĩa

Om là một trong những lời kinh tiếng Phạn được dùng trong lúc cầu nguyện “”Om Mani Padme Hum” được sử dụng và tôn kính ở tôn giáo phương Đông như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo. Đây là biểu tượng biểu trưng cho cuộc sống và thể hiện tâm linh tín ngưỡng sâu sắc. Hình xăm chữ Om cũng như thẩm mỹ vì nó là một dòng chảy đẹp với những đường cong uyển chuyển, đây là biểu hiện của chu kỳ sự sống và cái chết. Om được biết đến là sự xuất hiện của cả vũ trụ. Ý nghĩa của Hình xăm chữ Om ví như là âm thanh đầu tiên của cuộc sống. Chúng đại diện cho niềm tin của con người với tâm linh và tín ngưỡng.

Câu thần chú Om Mani Padme Hum chúng có ý nghĩa gì?

Cùng tìm hiểu câu thần chú Om Mani Padme Hūm với cách viết chữ Devanāgarī: ॐ मणि पद्मे हूं , tiếng Tây Tạng: ཨོཾ་མ་ནི་པ་དྨེ་ཧཱུྃ་, là một câu châm ngôn tiếng Phạn (châm ngôn cũng có thể là một câu chú hay một Đà-la-ni ngắn). Om Mani Padme Hum được xem là chân ngôn của Quan Thế Âm Bồ Tát và là chân ngôn lâu đời nhất chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong Phật giáo Tây Tạng. Câu thần chú Om Mani Padme Hum chúng còn được một là “Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” – hay có nghĩa là “Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ”, cụ thể từng câu chữ trong Om Mani Padme Hum như sau:

“Om” nghĩa là: Quy mệnh.

“Mani” nghĩa là: Viên ngọc như ý.

“Padme” nghĩa là: Bên trong hoa sen.

“Hum” nghĩa là: Tự ngã thành tựu.

Một số phiên âm của thần chú như sau:

Tiếng Việt: Úm ma ni bát ni hồng, Án ma ni bát mê hồng

Tiếng Tamil: ஓம் மணி பத்மே ஹூம்

Tiếng Nga: Ом мани падме хум

Tiếng Bengali: ওঁ মণিপদ্মে হুঁ

Ý nghĩa của chữ Om

Hình xăm chữ Om đang được nhiều bạn trẻ yêu thích vì mang nhiều ý nghĩa đặc biệt. Hình xăm này thể hiện sự huyền bí, là một thứ ánh sáng thể hiện sức mạnh và là biểu hiện của sự tâm linh. Chúng đem đến cho bạn niềm tin và luôn cân bằng trong cuộc sống. Những hình xăm chữ Om chúng thường được thiết kế với nhiều ý tưởng phong phú và đa dạng. Chúng kết hợp với chúa Ganesha, Trishul, hoa sen. Và nhiều thiết kế hỗn độn khác nhau tạo nên những hình xăm vô cùng ý nghĩa. Cũng giống như các tầng nghĩa, hình xăm chữ Om có rất nhiều kích cỡ và màu sắc khác nhau.

Vị trí của hình xăm chữ Om – Ý nghĩa của chữ Om

Hình xăm chữ Om biểu thị sự tín ngưỡng của người xăm và vô cùng quan trọng. Nếu bạn quyết định lựa chọn hình xăm chữ Om thì bạn cũng phải suy nghĩ và lựa chọn làm sao chúng thật hợp. Và chúng đem đến tác phẩm nghệ thuật ý nghĩa, sâu sắc.

Những vị trí thường xăm hình chữ Om là cổ tay, cổ chân, bắp tay, mu bàn tay, lưng, ngực, sau gáy,… là những vị trí vừa thể hiện sự may mắn. Vừa thể hiện được ý nghĩa và tư duy tâm linh này.