Ý Nghĩa Om Mani Padme Hum / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Thanhlongicc.edu.vn

Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum

Lạt Ma Zopa Rinpoche Thanh Liên dịch

Hai từ này bao gồm toàn bộ con đường dẫn tới Niết bàn – sự giải thoát khỏi đau khổ và nguyên nhân đích thực của đau khổ. Tất cả những con đường của các thừa thấp được bao gồm trong phương tiện và trí tuệ; do đó, chúng được bao hàm bởi mani và padme. Toàn bộ con đường Ba La Mật thừa và con đường Bồ đề tâm đưa tới sự giác ngộ cũng được hoàn thiện bởi phương tiện và trí tuệ; vì thế nó cũng hoàn toàn được bao hàm trong mani và padme. Cuối cùng, toàn bộ con đường Kim Cương thừa – con đường của thừa (cỗ xe) bất khả phân, tantra, hay mật chú cũng được bao hàm bởi những phạm vi này.

Tantra có bốn phần, hay cấp độ. Cấp độ thứ nhất là kriya tantra, nó được chia thành tantra có biểu hiện và tantra không biểu hiện. Loại tantra có biểu hiện là con đường của phương tiện; loại tantra không có biểu hiện là con đường của trí tuệ; toàn bộ con đường kriya tantra được bao gồm trong mani và padme. Những tantra khác thì cũng thế. Nhờ thực hành loại tantra thứ tư là Yoga Tantra cao cấp nhất (maha-anuttara yoga tantra), chúng ta có thể đạt được giác ngộ – tâm toàn giác; trạng thái siêu việt viên mãn trong mọi sự chứng ngộ và được tịnh hóa mọi ô nhiễm – trong một đời người ngắn ngủi của thời đại suy hoại này. Có hai giai đoạn trong Yoga Tantra cao cấp nhất: giai đoạn phát sinh (đôi khi cũng được goi là giai đoạn sáng tạo, phát triển hay tiến triển) và giai đoạn thành tựu (hay hoàn thành). Những giai đoạn này được bao gồm trong mani và padme, phương tiện và trí tuệ. Giai đoạn thành tựu có bốn cấp độ: sự tách biệt của tâm; huyễn thân; tịnh quang và sự hợp nhất. Huyễn thân, con đường của phương tiện, được bao gồm trong mani; tịnh quang, con đường của trí tuệ, được bao gồm trong padme. Cũng thế, có hai loại tịnh quang: tịnh quang ý nghĩa và tịnh quang ví dụ.

Để chuyển hóa tâm thức thành con đường, trước tiên chúng ta phải đặt nền móng là ba phương diện chính yếu của con đường: sự từ bỏ, Bồ đề tâm và trí tuệ chứng ngộ tánh Không. Sự từ bỏ samsara (sinh tử) là tư tưởng hết sức nhàm chán sinh tử nhờ nhận ra rằng nó chỉ có bản tánh đau khổ; thấu hiểu rằng dưới sự sai sử của những tâm thức và nghiệp tiêu cực hỗn loạn, các uẩn của thân và tâm ta thì đau khổ tự bản chất. Thường thì chúng ta không tỉnh giác về điều này. Chúng ta có ảo tưởng rằng những sự vật có bản chất vô thường thì thường hằng; những gì nhơ bẩn tự bản chất thì trong sạch; những gì đau khổ tự bản chất thì vui thú; và những gì không có chut hiện hữu nào từ khía cạnh riêng của nó, là những gì chỉ đơn thuần được dán cho một danh hiệu, thì hiện hữu tự khía cạnh riêng của nó. Đây là quan điểm thông thường, ảo tưởng của chúng ta về thực tại. Sự từ bỏ là việc nhận ra sự thật là mọi sự hiện hữu có điều kiện đều có bản chất là đau khổ.

Chúng ta giống như những con bướm đêm nhìn thấy một ngọn lửa hừng hực như một nơi chốn đẹp đẽ để vui sống mà không hiểu được điều gì sẽ xảy ra khi chúng chạm vào nó. Chúng ta hoàn toàn ảo tưởng. Thậm chí nếu ngọn lửa bị che phủ thì chúng vẫn ráng hết sức để lao vào cho bằng được. Cho dù chúng cảm thấy lửa nóng, chúng vẫn cố gắng lao vào. Chúng cho rằng sự hy lạc phi thường nằm nơi phần chói sáng. Do đó điều gì sẽ xảy ra khi chúng thực sự lọt vào trong đó? Chẳng có chút xíu gì trong những điều chúng đã hy vọng. Hoàn toàn là một sự đối nghịch. Chừng nào mà chúng ta còn ở trong luân hồi sinh tử, cuộc đời ta cũng liên tục lầm lạc như thế.

Chúng ta không hình dung rằng tự bản chất cuộc đời ta thì hoàn toàn đau khổ; chúng ta theo đuổi tâm thức ảo tưởng của mình như thể nó đúng đắn một trăm phần trăm, như thể những ý niệm sai lầm của ta thật hoàn hảo. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng ở những kế hoạch, những ảo tưởng của ta. Chúng ta tin chắc rằng những ý niệm sai lầm của ta thì hoàn toàn chân thật. Nó giống như việc nhìn một môi trường cháy đỏ là một công viên đẹp tuyệt trần và cố gắng lao vào đó, không nhận ra rằng ta sẽ bị thiêu đốt. Chúng ta nhìn cõi giới khổ đau này như một công viên tráng lệ.

Sự từ bỏ là việc nhận ra rằng luân hồi sinh tử của riêng ta chỉ là khổ đau tự trong bản chất; nhận ra rằng việc sống trong sinh tử thì giống như bị nhận chìm bởi những ngọn lửa hồng và cảm thấy không chịu nổi việc sống trong đó một giây phút mà không đạt được giai thoát. Khi ta cảm thấy nỗi khổ của riêng ta không thể chịu đựng nổi và tư tưởng tìm kiếm sự giải thoát xuất hiện một cách tự nhiên và liên tục, thì khi ấy chúng ta chứng nghiệm được sự từ bỏ luân hồi sinh tử.

Khi chúng ta thay đổi đối tượng và nghĩ về những người khác thay vì chính mình thì cảm xúc trở thành lòng bi mẫn. Khi đã có niệm tưởng mạnh mẽ về sự từ bỏ luân hồi sinh tử của riêng ta, khi ta quán chiếu về việc những người khác bị tóm bắt trong sinh tử và đau khổ, chúng ta bắt đầu cảm thấy một lòng bi mẫn kỳ lạ, mãnh liệt, không thể chịu đựng nổi; chúng ta cảm thấy không chịu nổi việc những người khác đang nằm trong sinh tử dưới sự kiểm soát của nghiệp và những niệm tưởng rối loạn của họ. Khi ta thấy những người khác bị tóm bắt trong sinh tử thì ta cảm thấy hết sức bất nhẫn, giống như bị một ngọn giáo đâm thủng trái tim, như một bà mẹ cảm xúc khi đứa con thân yêu duy nhất của bà rơi vào đống lửa. Thật không thể kham chịu nổi những điều như thế.

Theo cách đó, ta phát khởi lòng bi mẫn mãnh liệt phi thường ước muốn chúng sinh thoát khỏi đau khổ. Chúng ta không thể ngơi nghỉ mà không làm điều gì đó để cứu giúp họ. Không có cách nào để nghĩ về chính ta, hạnh phúc của riêng ta; không có cách nào để tư tưởng quan tâm tới bản thân ta xuất hiện. Chúng ta không thể sống lặng lẽ mà không làm điều gì để giải thoát chúng sinh. Ta không thể chịu nổi việc họ phải ở trong sinh tử cho dù chỉ một giờ hay một phút. Đúng như thế, với việc chứng nghiệm sự nhàm chán, chúng ta không thể đứng yên mà không thành tựu sự giải thoát của riêng ta, không thể chờ đợi dù chỉ một giây phút, mà giờ đây mục tiêu của chúng ta được nhắm vào những người khác. Khi ước muốn này xuất hiện, chúng ta chứng ngộ lòng bi mẫn vĩ đại – ước muốn tất cả chúng sinh có thể thoát khỏi mọi nỗi khổ và quyết định bản thân mình sẽ thực hiện ước muốn này.

Bồ đề tâm phát khởi từ thái độ này. Chúng ta tự hỏi: “Giải pháp lúc này là gì? Ta nên làm gì? Phương pháp nào tốt nhất cho ta để giải thoát tất cả chúng sinh thoát khỏi đau khổ?”. Chúng ta đi tới kết luận là phương cách duy nhất mà ta có thể dẫn dắt chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi đau khổ là thành tựu tâm toàn giác.

Do đó, ước muốn phát triển một tâm toàn giác xuất phát từ cội gốc của lòng bi mẫn. Từ lòng đại bi, tâm vị tha của sự giác ngộ – Bồ đề tâm – được phát triển. Ở đây lòng bi mẫn phát khởi tự nhiên đối với tất cả chúng sinh không có sự phân biệt giữa bằng hữu, kẻ thù và những người xa lạ – là những người giúp đỡ ta, những người đối xử tệ bạc và chỉ trích ta, và những người không giúp đỡ cũng không làm hại ta. Đối tượng của nó là toàn bộ chúng sinh đau khổ và lòng bi mẫn ước muốn tất cả chung sinh thoát khỏi mọi sự che chướng. Lòng đại bi ước muốn tất cả những ai không có hạnh phúc vô song của sự giác ngộ được thành tựu trạng thái của tâm toàn giác và tự mình nhận lãnh trách nhiệm trong việc nhìn thấy họ thực hiện điều đó.

Với Bồ đề tâm phát khởi tự nhiên, chúng ta cảm thấy như người mẹ mà đứa con thân yêu duy nhất của bà bị rơi vào ngọn lửa. Chúng ta không thể đứng yên. Ngày lẫn đêm, trong mọi lúc, tâm vị tha của sự giác ngộ phát khởi không chút nỗ lực. Vào lúc đó, chúng ta đã chứng ngộ Bồ đề tâm. Người chứng ngộ Bồ đề tâm được gọi là người “may mắn”. Một người như thế thật minh triết, thiện xảo và bi mẫn. Những người trong tâm có một trái tim hết sức tốt lành, Bồ đề tâm, thì thực sự tuyệt hảo.

Trong phạm vi thế tục, những người có thể kiếm rất nhiều tiền, có thể giết chết kẻ thù, những người có nhiều căn nhà ở mọi nơi, được coi là người tài giỏi, khéo léo và khôn ngoan. Những người có thể lừa gạt người khác để bồi đắp cho thanh danh hay hạnh phúc của mình được cho là khôn ngoan, tài giỏi và tự lực. Những ý niệm này hoàn toàn sai lầm. Cho dù bạn có thể tự giải thoát mình khỏi sinh tử bạn vẫn không hoàn tất công việc của bạn đối với bản thân hay những người khác. Vì thế, những Bồ tát không tất yếu là thiện xảo hay bi mẫn, cho dù các Ngài có thể tự giải thoát bản thân các Ngài ra khỏi sinh tử. Do đó, trí tuệ của việc chứng ngộ tánh Không được thực hành sau sự chứng ngộ Bồ đề tâm.

Như thế, sau khi tâm thức bạn được tu hành tốt đẹp trong con đường tổng quát, bạn nhận lãnh sự nhập môn (quán đảnh) từ một Guru kim cương đầy đủ phẩm tính, là vị có thể ban những nhập môn Yoga Tantra cao cấp nhất. Một khi nhờ việc nhận lãnh bốn loại nhập môn Yoga Tantra cao cấp nhất mà tâm bạn được thuần thục, bạn tu hành tâm thức bằng cach thiền định về hai con đường của nó: những con đường tiệm thứ của sự phát triển và thành tựu. Khi tâm bạn đạt tới cấp độ tịnh quang, ví dụ, bạn giải thoát khỏi sự hiểm nguy của cái chết – không có cái chết không được kiểm soát, không có việc chết mà không có sự chọn lựa.

Như tôi đã đề cập ở trên, tịnh quang được biểu thị bởi padme, trí tuệ, và huyễn thân được biểu thị bởi mani, phương tiện. Nếu bạn có thể đạt tới giai đoạn này, bạn có thể đạt được giác ngộ trước khi chết, nhưng nếu bạn không thể, bạn có thể thành tựu tốt đẹp như thế sau khi chết, trong giai đoạn trung ấm, như nhiều Lạt ma cao cấp và yogi vĩ đại như Milarepa – bậc đã giác ngộ trong một đời.

Công đức phải tích tập trong ba vô lượng kiếp bằng cách đi theo con đường Ba la mật thừa có thể hoàn toàn được tích tập trong một đời ngắn ngủi bằng cách thiền định về huyễn thân. Tịnh quang là thuốc chữa lành cho cái thấy nhị nguyên; những niệm tưởng hỗn loạn và thậm chí cái thấy nhị nguyên vi tế có thể hoàn toàn ngừng dứt bằng cách thiền định về tịnh quang với sự hỗ trợ của công đức rộng lớn mà bạn tích tập bằng sự thiền định về huyễn thân. Theo cách này, bạn thành tựu sự hợp nhất thân hoàn toàn thiêng liêng thanh tịnh và tâm linh thánh của vị Phật hay Bổn Tôn mà bạn đang thực hành và trở thành một vị Phật.

Khi mặt trăng mọc, nó không cần phải nỗ lực để ánh phản chiếu của nó xuất hiện trên mặt nước: “Ta sắp phản chiếu trong mọi mặt nước trên Trái đất”. Bất kỳ nơi đâu có nước, ánh phản chiếu của mặt trăng tự động xuất hiện. Tương tự như thế, sau khi bạn trở thành một vị Phật, sau khi bạn thành tựu Bổn Tôn mà bạn từng thực hành, bạn sẽ làm việc một cách tự nhiên không cần cố gắng cho lợi ích của tất cả chúng sinh. Bạn sẽ làm việc liên tục với thân, khẩu và ý thiêng liêng của bạn để dẫn dắt chúng sinh bao la như không gian tới hạnh phúc vô song của tâm toàn giác.

Đây chỉ là một giải thích ngắn gọn về ý nghĩa của thần chú OM MANI PADME HUM, nhưng tôi hy vọng là từ đó bạn có thể nhận ra làm thế nào mani và padme – phương tiện và trí tuệ – bao gồm toàn bộ con đường tiệm thứ đưa tới giác ngộ.

Vậy thì, nếu tâm bạn như một tảng đá thì nó giống như đất không được chăm bón; nó không được chuẩn bị tốt. Cho dù bạn gieo trồng những hạt giống, chúng sẽ không phát triển. Nếu tâm bạn vị kỷ, cứng cỏi, ngập đầy sự sân hận và bất mãn, giống như sắt thép, giống như một ngọn núi đá, gay gắt, xấu xa, thì cho dù bạn mong muốn đạt được giải thoát hay sự giác ngộ viên mãn, con đường mà mani và padme bao hàm sẽ không phát triển trong đó. Đất cần được nước tưới mát và chứa đựng những khoáng chất và phân bón – nhờ thế những sự vật mới có thể phát triển trong đó. Cũng thế, tâm hiện tại của bạn cần thay đổi từ trạng thái đặc cứng, xấu xa, khó chịu của nó. Nó cần được chuyển hóa, trở nên mềm mại – nó cần những sự ban phước Đức Phật Đạo sư.

Cuối cùng, điều còn lại cần giải thích là om. Khi thực hành và thành tựu con đường phương tiện và trí tuệ trong tâm bạn được biểu hiện bởi mani và padme – sự tịnh hóa mọi che chướng, nghiệp tiêu cực và ý niệm bất tịnh, hay cái thấy, của thân, khẩu và ý. Khi thân, khẩu và ý của bạn được tịnh hóa như thế, chúng trở thành thân, khẩu và ý kim cương của Đức Đạo sư Chenrezig.

Chữ om (Phạn ngữ hay Tây Tạng) có ba phần. Thân của chữ này là ah, âm mẹ. Trên nó là một đường gợn sóng được gọi là (trong tiếng Tây Tạng) một naro, nguyên âm biến đổi âm “ah” thành “o”. Trên đó là một số 0 nhỏ, nó thêm vào âm “m”. Ba thành phần này thêm vào cho “om” và biểu hiện ba kaya (thân), hay thân, khẩu và ý kim cương. Những ý niệm bất tịnh của bạn về thân, khẩu và ý chuyển hóa thành thân, khẩu va ý kim cương hoàn toàn thanh tịnh của Đức Chenrezig, Đấng Bi mẫn vĩ đại. Như thế, om có nghĩa là sự giác ngộ.

Như vậy, đây là ý nghĩa của OM MANI PADME HUM; sự bắt đầu, hay nguyên nhân, của con đường, bản thân con đường, và kết quả. Nó giống như một cái cây với gốc, thân và quả. OM MANI PADME HUM cũng bao gồm mọi sự hiện hữu – sự duyên sinh và tánh Không: mani và padme. Mọi sự hiện hữu được gồm chứa trong hai chân lý; mọi điều này được bao hàm trong mani và padme: chân lý tuyệt đối trong padme, và chân lý quy ước, chân lý của tâm hoàn toàn bị ngăn che, trong mani.

Cách này hay cách khác, có một sự khác biệt khi bạn trì tụng thần chú của vị Phật đặc biệt này, hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật – lòng đại bi không thể chịu đựng nổi nỗi khổ của chúng sinh và đưa dẫn họ thoát khỏi nó. So với lòng bi mẫn mà ta dành cho bản thân mình thì lòng bi mẫn này lớn hơn hàng trăm ngàn lần. Không thể có một sự so sánh. Và lòng bi mẫn vô hạn này của tất cả chư Phật hiển lộ trong phương diện đặc biệt này mà ta gọi là Đức Chenrezig, Vị Phật Từ Thị (Nhìn Chúng Sinh Với Đôi Mắt Bi mẫn).

Do bởi lòng bi mẫn của Ngài, chính Đức Phật đã thành tựu Đại Niết bàn, phạm vi của an bình vĩ đại, không chút chọn lựa, được kết chặt bởi lòng bi mẫn. Chúng ta thì trái ngược lại: không chọn lựa, bị buộc chặt bởi những tư tưởng ích kỷ, chúng ta mang lại tai họa cho chúng sinh khác và thậm chí cho cả bản thân ta. Được kết buộc bởi lòng bi mẫn, chư Phật hiển lộ trong phương diện Báo thân đối với các Bồ tát cao cấp và trong phương diện Hóa thân đối với những Bồ tát bình thường. Đối với chúng sinh bình phàm, các Ngài hiển lộ trong thân tướng của một tu sĩ, như Đưc Đạt lai Lạt ma, hay một vị vua; trong những thân tướng khác nhau, bất kỳ điều gì cần thiết. Nếu có một biểu thị sẽ điều phục chúng sinh thì đó là cách các Ngài sẽ hiển lộ – như một quan tòa, một tướng lãnh hay thậm chí như một đồ tể hay một người khùng điên; như một người mù hay hành khất để làm cho những người khác tích tập công đức bằng cách thực hành lòng bác ái và nhờ đó tạo nên nguyên nhân cho hạnh phúc. Nếu một vài chúng sinh cần được dẫn dắt theo lối đó, các Ngài sẽ hiển lộ như một người giàu có; nếu một người khác cần được hướng dẫn trong một phương diện đặc biệt, và nếu đó là cách thế duy nhất để điều phục tâm thức của người đó, thì do bơi sự tham luyến mãnh liệt của anh ta, các Ngài sẽ hiển lộ như một gái điếm. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tuyên bố trong giáo lý của Ngài: “Ta sẽ không hiển lộ như tất cả những điều này”. Ngài nói, “Ta không tham đắm nhưng ta hiển lộ như có tham luyến; ta không mù nhưng hiển lộ như mù lòa; ta không què nhưng hiển lộ như què quặt; ta không điên nhưng hiển lộ như khùng điên; ta không chút giận dữ nhưng hiển lộ như sân hận. Trong tương lai nếu ta hiển lộ trong những cách thế như thế, sẽ không chúng sinh nào nhận ra điều này”. Tuy nhiên, để đưa dẫn chúng ta, Ngài đã hiển lộ là Đấng Ngàn Tay Ngàn Mắt (Thiên Thủ Thiên Nhãn) và thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thì có phần khác biêt với những thần chú khác. Những thần chú khác rất mạnh mẽ nhưng thần chú này có một vài tính cách hay tác dụng đặc biệt – trong khi nó được trì tụng thì tâm thức trở nên an bình và bi mẫn hơn nữa một cách tự nhiên; tư tưởng làm lợi lạc người khác phát khởi tự nhiên và hành giả bớt có tư tưởng tự-quy.

Thông thường thì những người bình thường trì tụng OM MANI PADME HUM có một trái tim tốt lành cho dù họ không thấu hiểu giáo lý hay thiền định về con đường tiệm thứ dẫn tới giác ngộ. Điều này xảy ra hoàn toàn nhờ vào niềm tin nơi Đức Phật Bi Mẫn, Đấng Bi mẫn vĩ đại và việc trì tụng thần chú của Ngài. Bạn cần có một trái tim tốt lành ngay cả để có được hạnh phúc trong đời này, sự an bình của tâm hồn trong đời sống hàng ngày. Một trái tim tốt lành là điều vô cùng cần thiết; nó là cách thế duy nhất. Việc trì tụng thần chú này rất ích lợi. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tâm thức.

Khi bạn trì tụng thần chú OM MANI PADME HUM bạn không nên cảm nhận thái quá về thân tướng của Đức Chenrezig mà nên cảm nhận về tinh túy hay bản tánh của Ngài. Nếu bạn không thoải mái khi quán tưởng Ngài ở trên đỉnh đầu bạn thì hãy quán tưởng Ngài ở trước mặt. Hãy quán tưởng lòng đại bi đối với tất cả chúng sinh hiển lộ trong phương diện ngàn tay ngàn mắt. Bản tánh của thân linh thánh của Ngài là ánh sáng. Ngài đang mỉm cười và đây bi mẫn, đôi mắt từ ái nhìn thẳng vào bạn – một chúng sinh đau khổ, lầm lạc – và cũng nhìn tất cả chúng sinh khác. Nếu bạn có thể làm được, hãy quán tưởng một chữ HRIH trên một đĩa mặt trăng nằm trên một bông sen tám canh trong trái tim Ngài. Từ đây, những tia cam lồ phóng ra và đi vào bạn, tịnh hóa bạn về mọi lỗi lầm, đặc biệt là thái độ ích kỷ, là chướng ngại chính cho việc phát triển Bồ đề tâm của bạn. Trong khi quán tưởng theo cách này, hãy trì tụng OM MANI PADME HUM trong mức độ bạn có thể.

theo Báo Giác Ngộ Online

Ý Nghĩa Câu Thần Chú Om Mani Padme Hum

Om Mani Padme Hum là một câu thần chú tiếng Phạn, được xem là thần chú cầu Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara) và là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng.

Thần chú Om Mani Padme Hum bắt nguồn từ đâu?

Tại Việt Nam ta, Om Mani Padme Hum có tên gọi khác là Lục Đại Tự Minh với 6 âm tiết được đọc là Án Ma Ni Bát Mê Hồng hoặc Án Ma Ni Bát Di Hồng.

Trong kinh Đại thừa Trang nghiêm Bảo Vương, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có nói rằng, ngài đã phải mất 1 triệu kiếp mới tìm thấy được câu thần chú này. Ngài nói: “Ta có thể biết một năm có bao nhiêu hạt mưa rơi xuống quả địa cầu, sông Hằng có bao nhiêu hạt cát nhưng ta không thể nói hết về sức mạnh của câu thần chú này.

Đối với các nhà sư Tây Tạng, âm thanh của thần chú này thật vi diệu, nó đại diện cho Bồ đề tâm và ước muốn giải thoát khỏi Vòng Luân Hồi. Câu thần chú Om Mani Padme Hum là sức mạnh của những lời dạy dỗ của Đức Phật. Khi ta niệm Om Mani Padme Hum có nghĩa là nắm được sức mạnh kỳ diệu của toàn bộ năng lượng và lòng từ bi của đức Phật độ cho mình và cho mọi người. Càng tụng niệm Om Mani Padme Hum bao nhiêu, càng được gia trì thêm bằng những phẩm chất yêu thương của pháp môn niệm Phật. Đây là câu thần chú có năng lượng mạnh mẽ thức tỉnh và kết nối lòng nhân từ trong mỗi người và đức Phật.

Om Mani Padme Hum là một thần chú rất được yêu thích trong Phật giáo, và thường được dịch là “Viên ngọc trong hoa sen”. Đọc thần chú này mang lại nhiều công đức và thanh lọc. Hiểu được ý nghĩa sâu sắc của nó sẽ mang lại nhiều phước lành to lớn. Thần chú được mệnh danh là “Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” tức là “Chân ngôn sáng rõ bao gồm sáu chữ”.

Thần chú Om Mani Padme Hum có ý nghĩa như thế nào?

Chú Lăng Nghiêm: Thần chú uy lực nhất trong Phật giáo

Lợi lạc khi tụng Thần chú Om Mani Padme Hum là không phải nghĩ bàn.

Khi đức Phật Quán Âm nguyện trở lại vòng luân hồi để giúp chúng sinh khỏi bể khổ, Ngài sử dụng câu thần chú lục tự đại minh chân ngôn Om Mani Padme Hum để giúp chúng sinh khỏi bến mê lầm. Nếu ra niệm câu thần chú này và nghĩ tới đức Phật Quán Thế Âm, trì tụng lục minh chân ngôn, chắc chắn chúng ta sẽ thoát khỏi đau khổ. Do vậy, nên đưa Quán Thế Âm vào tâm thức thật tôn kính, trì tụng Lục tự đại minh rõ ràng và chân thành, mọi nhu cầu thế gian và xuất thế gian sẽ được đáp ứng.

Trước khi trì niệm thần chú Om Mani Padme Hum, chúng ta nên hiểu rõ ý nghĩa của câu thần chú này:

Om: Tượng trưng cho cơ thể của người Phật tử, lời nói và tâm trí, nó cũng tượng trưng cho thân thể, lời nói và trí tuệ của một vị Phật tinh khiết. Con đường được chỉ ra bởi bốn âm tiết kế tiếp. Đây là một từ rất phổ biến gợi lên của sức mạnh tinh thần và sự hiện diện tuyệt đối. Nó được biết đến khắp Châu Á trong nhiều tôn giáo, đặc biệt là Ấn Độ giáo. Âm tiết Om được xem là lời nói của chư Phật, phản ánh nhận thức của vũ trụ xung quanh, nó liên tục vang dội trên nền của mọi thứ tồn tại trên vũ trụ này. Âm thanh của nó đại diện cho toàn thể vũ trụ, quá khứ hiện tại và tương lai.

Mani: Có nghĩa là “đồ trang sức” hoặc “viên ngọc”, có nghĩa là viên ngọc, tượng trưng cho ý muốn vị tha để trở nên giác ngộ, từ bi và yêu thương. Mani là biểu hiện cho Bồ đề tâm Bodhicitta..

Padme: Phát âm theo Sankrit, hoặc PEME trong tiếng Tây Tạng, từ này có nghĩa là bên trong hoa sen. Hai âm tiết này giúp chúng ta hạn chế những suy nghĩ sai lầm, phát triển năng lực tập trung hướng đến một trí tuệ thuần khiết không lẫn tạp chất xấu.

Hum: Có nghĩa là Tự ngã thành tựu. Niệm tới “Hum” có nghĩa bạn đã có tinh thần giác ngộ. Chúng ta không còn hận thù và chấp trước nữa, thay vào đó là phát triển những phẩm chất tốt lành, trí tuệ và từ bi trong mỗi con người.

Khi chúng ta niệm chú, thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lại tên Ngài Bồ Tát Quán Âm. Mặt khác, khi niệm câu chú OM MANI PADME HUM thì có ý nghĩa hơn, vì câu chú này là sự thanh nhã và năng lực tâm thức của ngài Quan âm đã gom sự thanh nhã và từ bi của tất cả các vị Phật và Bồ Tát. Trong cách nhìn này, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối, và thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và từ bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.

Từ Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 từng chia sẻ:

“Thật là hay khi niệm thần chú Om Mani Padme Hum, nhưng trong khi bạn đang niệm nó, bạn nên suy nghĩ về ý nghĩa của nó, vì ý nghĩa của sáu âm tiết là tuyệt vời và vĩ đại. Đầu tiên, OM tượng trưng cho cơ thể của người Phật tử, lời nói và tâm trí, nó cũng tượng trưng cho thân thể, lời nói và trí tuệ của một vị Phật tinh khiết. Con đường được chỉ ra bởi bốn âm tiết kế tiếp. MANI, có nghĩa là viên ngọc, tượng trưng cho ý muốn vị tha để trở nên giác ngộ, từ bi và yêu thương.

Hai âm tiết, PADME có nghĩa là hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ. Sự tinh khiết phải đạt được bằng sự thống nhất không thể tách rời của phương pháp và sự khôn ngoan, được biểu thị bởi âm tiết cuối cùng HUM, cho thấy sự không thể chia cắt được. Như vậy, sáu âm tiết, Om Mani Padme Hum, không có nghĩa là phụ thuộc vào việc thực hành một con đường mà là một sự kết hợp không thể tách rời của phương pháp và sự khôn ngoan, bạn có thể biến đổi cơ thể không tinh khiết, lời nói và tâm trí của bạn thành thân thể, Tâm của một vị Phật.”

Đọc thần chú Phật Di Lặc để giúp cuộc sống hạnh phúc

Thanh Tâm

Tìm Hiểu Ý Nghĩa Của Câu Thần Chú Om Mani Padme Hum

Om Mani Padme Hum là một câu thần chú tiếng Phạn, được xem là thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteshvara) và là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây Tạng. Om Mani Padme Hum còn được gọi là thần chú 6 âm hay Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn tức là :Chân Ngôn Sáng Tỏ gồm 6 âm.

Có thể hiểu là: Viên ngọc sáng trong hoa sen. Câu thần chú này ví chúng ta như những viên ngọc quý giá, bản tính nguyên sơ và trái tim của chúng ta luôn chất chứa lòng từ bi, tình yêu thương nhân ái.

Dịch theo âm Hán- Việt, Om Mani Padme Hum thường được đọc như sau: Án Ba Ni Bát Ni Hồng hay Úm Ma Ni Bát Ni Hồng.

Chúng ta cần hiểu thêm về câu thần chú 6 âm này với hình ảnh viên ngọc sáng tượng trưng cho Tâm Bồ Đề, hoa sen là biểu thị cho tâm thức trong sáng, thanh khiết, câu thần chú này còn được hiểu là tâm Bồ Đề nở trong lòng mỗi người.

Tuy nhiên, câu thần chú Lục Tự Đại Minh Chú gồm 6 âm, mỗi âm đều vang lên những âm thanh kì diệu và có những tác dụng bí ẩn theo cách Kim Cang Thừa trình bày. Đối với Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng thì Lục Tự Đại Minh Chú mang ý nghĩa to lớn về lòng từ bi và ánh sáng trí tuệ mà các Chư Phật muốn độ hoá tất thảy chúng sinh. Chính vì thế, thần chú 6 âm Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn này còn có ý nghĩa tương ứng với 6 cõi tái sinh của dục giới.

Những Ý Nghĩa Khác Nhau Của Câu Thần Chú Om Mani Padme Hum

Đầu tiên, thần chú Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn được hiểu đơn giản chỉ là tên của Quan Thế Âm Bồ Tát ( Mani Padme).

Om Mani Padme Hum – Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn:

OM: Thân, tân, trí của các Chư Phật ,đây cũng là âm thanh bắt đầu.

HUM: tượng trưng cho tâm thức của các vị Chư Phật

Mani là chỉ những châu báu mà Bồ Tát Quan Thế Âm cầm trong hai tay giữa, Padme là bông hoa sen cầm ở tay trái thứ nhì. Khi cất tiếng tụng niệm Mani Padme chúng ta đang gọi tên Ngài và những phẩm hạnh của Ngài.

Thần chú Om Mani Padme Hum gồm 6 âm, mỗi âm đại diện cho một cõi hiện hữu của vòng luân hồi.

Om: mang ý nghĩa đóng cánh cửa luân hồi trong cõi trời

MA : đại diện cho cánh cửa cõi thần, A-tu-la

NI : đại diện cho cánh cửa cõi người

PAD: đại diện cho cánh cửa cõi súc sanh

ME : đại diện cho cánh cửa cõi ngạ quỷ;

HUM: đại diện cho cánh cửa cõi địa ngục.

Khi chúng ta liên tục tụng niệm câu thần chú này có nghĩa là chúng ta đang liên tục gọi hồng danh của Đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát. Câu thần chú Om là tất cả tấm lòng từ bi, năng lực trí tuệ của tất cả Chư Phật được Quan Thế Âm Bồ Tát gom lại. Bởi vậy khi thanh âm này vang lên, tâm trí như được gột rửa, bức màn vô minh được xoá bỏ, đưa đến sự thức tỉnh giác ngộ.

Ngoài ra, thần chú Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn còn có những ý nghĩa khác như:

Mỗi âm tiết được xem như có ảnh hưởng thanh tịnh hóa:

PAD: tịnh hóa những cảm xúc mâu thuẫn

ME : tịnh hóa điều kiện ẩn tàng.

HUM : tịnh hoạ tấm màn vô minh.

Mỗi âm tiết là một bài cầu nguyện:

OM : lời cầu nguyện hướng về thân thể của các vị Phật.

MA: lời cầu nguyện hướng về lời nói của các vị Phật.

NI: lời cầu nguyện hướng về tâm thức các vị Phật.

PAD : lời cầu nguyện hướng về những phẩm chất của các vị Phật.

ME: lời cầu nguyện hướng về hoạt động của các vị Phật.

HUM: bao gồm tất cả sự thanh nhã của thân, khẩu, ý, phẩm chất, và hoạt động của các vị Phật.

Sáu âm tiết liên hệ đến sáu ba-la-mật, sáu sự hoàn hảo được chuyển hóa:

OM: liên hệ đến sự rộng lượng.

Cuối cùng, sáu âm tiết liên hệ đến sáu trí tuệ:

OM : Trí tuệ thanh thản, an bình.

Video thần chú Om Mani Padme Hum

Bài viết trên cung cấp cho các bạn những kiến thức Phật giáo về ý nghĩa vi diệu của câu thần chú Om Mani Padme Hum. Với những ý nghĩa sâu sắc, thắm đậm lòng từ bi và ánh sáng trí tuệ cũng như công đức vô lượng của các Chư Phật, câu thần chú Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn xứng đáng là câu thần chú vi diệu nhất khắp thế giới.

Bài viết trên được sưu tầm từ nhiều nguồn tài liệu Phật giáo khác nhau, hi vọng sẽ giúp cho các bạn hiểu hơn về ý nghĩa câu thần chú Om Mani Padme Hum này!!!

Om Mani Padme Hum Công Đức Thật Sự Ra Sao?

Om Mani Padme Hum công đức thật sự ra sao?

(Sunshine Nguyen đã thỉnh hỏi đúng pháp)

Soạn giả Pram Nguyen Ngày 9/4/2020 — o0o —

Bây giờ là 3:00 sáng, hôm nay Sám Hối và nhập Đại Bi Tam-Muội cầu sự gia trì của ngài Hư-Không Tạng và Quán Tự-Tại/Quán Thế Âm Thế Tôn dùng CƯỠNG THUYẾT MÔN khai thị ít phần về Ý NGHĨA của LỤC TỰ ĐẠI MINH.

Vì vậy, sợ tuổi già hay quên, nên vội viết lại ít dòng cho người hữu duyên.

KINH ĐẠI-THỪA TRANG-NGHIÊM BẢO VƯƠNG nói nhiều về công đức của LỤC TỰ ĐẠI MINH, nhưng ngày nay rất hiếm người biết ý nghĩa mầu nhiệm của 6 chữ nầy.

Nam mô Vairocana (Tỳ-Lô-Giá-Na: Biến Chiếu) Như Lai Nam mô Hư Không Tạng Thế Tôn Nam mô Quan Tự Tại Thế Tôn Nam mô Trừ Cái Chướng Thế Tôn Nay con nương oai thần của chư Tôn khai mở Chánh Pháp Tạng!

LỤC TỰ ĐẠI MINH muốn có được công đức, phước báu như Kinh thuyết thì phải hiểu và tu tập thành-tựu dòng triển chuyễn thuận nghịch của Thần Chú.

LỤC TỰ ĐẠI MINH là Tâm của đức Quán Tự-Tại/Quán Thế Âm Thế Tôn.

ĐẠI BI TÂM ĐÀ-LA-NI cũng là Tâm của đức Quán Tự-Tại/Quán Thế Âm Thế Tôn.

Ngoài ra các Thần Chú, Chân Ngôn, Đà-La-Ni, các Chương cú Bí-Mật, các Câu Kim-Cang cũng đều là Tâm của đức Quán Tự-Tại/Quán Thế Âm Thế Tôn.

Tâm của chư Phật vô lượng vô biên bất khả xưng bất khả thuyết bất khả thuyết chuyễn châu biến tâm của tất cả chúng sanh ở Tứ Sanh, Lục Đạo khắp cả thập phương tam thế, nhưng chúng sanh chẳng hay chẳng biết!

Muốn hiểu biết LỤC TỰ ĐẠI MINH phải học KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TAM-MUỘI, KINH LÝ-THÚ BÁT-NHÃ. Vì sao? – Vì Kinh đầu nói về Thủ-Lăng Nghiêm Tam-Muội; Kinh sau nói về Tự-Tánh Thanh-Tịnh.

Lại phải học KINH ĐẠI-THỪA BẢN SANH TÂM ĐỊA QUÁN và KINH ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG SÁM HỐI DIỆT TỘI TRANG NGHIÊM THÀNH PHẬT. Cả hai Kinh đều nói về Pháp Sám Hối vi diệu và Tam Thân, Tứ Thân, Ngũ Thân.

Nay ta, Pram Nguyen, triển khai ý nghĩa thuận của LỤC TỰ ĐẠI MINH. Từ trước đến nay chưa có vị Đạo Sư, A-Xà-Lê nào giải thích hay ghi chép ý nghĩa của LỤC TỰ ĐẠI MINH trên văn tự.

Vì Đại Dịch và Sao Chỗi đã và đang làm cho chúng sanh kinh hoàng, mong cầu phước đức để vượt qua, nếu chẳng may bị Cộng nghiệp lây lan (do ác nghiệp thời quá khứ nay chín muồi) thì nhờ đó cũng sanh về cõi Trời Đâu Suất, diện kiến Từ Thị Di-Lặc Thế-Tôn (Maitreya) hay tùy nguyện vãng sanh cõi Tịnh-độ ở 10 phương.

Xét thấy lòng tín-lạc của một số người con Phật và một số khác khéo thuận tu theo Chánh Pháp của Như Lai, bổn phận là người Thủ Hộ nay xin trợ duyên lành, hé lộ ít phần cho người hữu duyên.

Sự giải thích ở đây buộc phải giới hạn ở cấp độ Sự (Kriya), Tác (Cariya) và Du-già Mật.

Ý nghĩa thậm thâm của LỤC TỰ ĐẠI MINH không dừng ở các loại Mật cấp thấp (Lower Tantra) mà xuyên suốt cả Du-Già Tối Thượng của Kim-Cang Thừa và Câu Sanh Khởi Thừa. Như vậy,

1) LỤC TỰ ĐẠI MINH đọc thuận do Pram Nguyen chỉ dẫn phải được hiểu như thế nầy. Đọc thuận mang ý nghĩa tự thân tu tập.

OM MANI PADME HUM

OM: TAM THÂN PHẬT tức Pháp, Báo và Ứng hóa Thân

MANI: là bảo châu tức THỦ LĂNG NGHIÊM TAM MUỘI. Ngài Địa Tạng, ngài Hư Không Tạng, v.v… đều cầm thứ châu nầy, tiêu biểu cho quả địa Đẳng Giác của chư vị nơi thế giới Ta-Bà (vì có Phật xuất thế, nên không ai cao hơn Phật).

PADME: là hoa sen tức TỰ-TÁNH THANH-TỊNH chẳng nhiễm khách-trần, phiền-não…

HÙM: Ngũ Trí của chư Phật.

Tóm gọn: “Từ Tam Thân Phật lưu xuất ra tất cả giáo pháp để chúng sanh thâm nhập Thủ Lăng Nghiêm Tam-Muội, chứng nhập Tự-tánh Thanh-tịnh bổn nguyên tức Trí tuệ Bát-Nhã Ba-La-Mật-Đa, Hùm chính là con đường dẫn đến Ngũ Trí.”

2) LỤC TỰ ĐẠI MINH đọc ngược do Pram Nguyen chỉ dẫn phải được hiểu như thế nầy. Đọc ngược mang 2 ý nghĩa. Ở đây chỉ triển khai 1 ý nghĩa là giáo hóa hay cứu độ chúng sanh.

HUM PADME MANI OM

HÙM: tức là Bồ Đề Tâm

PADME: tức Nguyệt luân có đức Bổn Tôn hiện ra

MANI: tức Phật-Tánh hay Như-Lai Tạng hoặc Diệu Minh Chân Tâm

OM: thành Tam Thân Phật

Tóm gọn: “Bồ Đề Tâm là gốc khởi tu, quán Nguyệt-Luân và đức Bổn Tôn, bấy giờ Phật-tánh hiển lộ, chứng đắc quả vị Vô-Thượng Bồ-Đề.”

Người tu theo LỤC TỰ ĐẠI MINH khi hoàn-mãn phải đem pháp mình thành-tựu mà cứu-độ chúng sanh tột thuở vị lai vô biên tế chính là tự thân tu tập đại diệu cúng dường tất cả chư Phật của Bảo-Giới.

Còn phát Bồ Đề Tâm, kiên trụ Bồ Đề Tâm và làm cho Bồ Đề Tâm hiển lộ tức là tự thân tu tập đại diệu cúng dường tất cả chư Phật của Kim-Cang Giới.

AI HỌC ĐƯỢC NHƯ VẦY TỨC LÀ NHỚ ÂN CHƯ PHẬT, TỨC LÀ LÀM CHO PRAM NGUYEN HOAN HỶ.

— hoàn tất lúc 3:52 AM —

Pram Nguyen

Lê Nam Thậm thâm vi diệu pháp. Con cảm ơn Chú giảng giải. ❤️❤️❤️

Vinh Trần Lời khai thị vang vọng Chấn động khắp châu thân Duyên Gặp Huynh Pram Nguyen Được trao truyền Gươm Báu Đại Trí Ngài Văn Thù Thập Hạnh Ngài Phổ Hiền Áo giáp Kim Cang kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Đại Thông Phương Diệt Tội Đệ xin Nguyện Tinh Tấn Tri Ân Bằng Hành Trì Không Phụ Lòng Đại Huynh. Om Ma Ni Padme Hum

Trần Chính Trức Con đường tu của các hành giả đã có ánh sáng mặt trời của chú soi chiếu. 🙏

Ngọc Huy Tạ ơn Chú khai thị, con hoan hỉ vô cùng 

Sam Salish Cảm ơn chú đã ban chánh pháp hiển lộ cho chúng sanh, giúp cho thảy đều hiểu biết thêm về công đức miễn bàn và oai lực của thần chú, kính mong chư Phật và Bồ Tát trì giúp cho chú có nhiều phương tiện để giúp người ❤ Cảm ơn chú rất nhiều. ❤

Vũ Trần Hữu Minh Chân thành cảm ân Chú!

Trương Nga Con xin Y giáo phụng hành, xin cảm tạ công ơn Chú đã vì tụi con mà thức đêm gần 4h sáng mới ngủ, thức hôm thức đêm khai thị Pháp Yếu Thù Thắng ạ. Như chiếc nhẫn xưa nay vẫn rất quý nhưng lại là nhẫn cỏ! Nay được nhìn thấy nhẫn vàng 4 số 9 vậy. Hiếm gặp, chưa từng nghe, chưa từng thấy. HUM PADME MANI OM. <3

Nguyen Minh Nguyet Chú ko ngủ vì Đại cuộc. Cảm ơn Chú đã khai thị, tuy con mới hiểu đc theo kiểu ù ù cạc cạc nhưng con sẽ cố gắng chăm chỉ để đc thông minh hơn ❤️😃

Hạo Nguyệt Hoan hỷ hoan hỷ. Con tạ ơn Thầy ạ

Vinh Trần Các bạn fb ơi Ngài Pram Nguyen khai sáng Bạn, bè, anh chị mình Đã thấu rõ Tinh Tuý Lục Tự Đại Minh Chú Kinh Diên Mệnh Bồ Tát Oai Lực Đại Bi Chú Pháp Sám Hối Diệt tội Hãy tinh tấn Hành trì Để Ngài Pram Nguyen hoan hỉ Tri Ân Ngài Ban Pháp Bằng hành trì miên mật Giữ Vững Mãi Niềm Tin Chánh Pháp Luôn Tồn Tại Om Ma Ni Padme Hum

Phi Hà Tùy hỷ công đức của Sh OM MA NI PAD ME HUM

Hao Quang Dinh Em đã hành trì theo Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Trang Nghiêm Diệt Tội Thành Phật, đồng thời đánh máy vừa xong từ bản dịch tay của Hòa thượng Thích Thiện Tâm – Vô Nhất Đại Sư Thầy ạ.

Pram Nguyen hãy so sánh với bản dịch của Hòa Thượng Trung Quán, xem có gì khác không?

Hao Quang Dinh Pram Nguyen dạ bản của HT TT Quán dịch đọc không suôn lắm ạ. Bản dịch của HT TT Tâm có phần Chú ở quyển Hạ, nhưng bản kia thì không có ạ.

Pram Nguyen Hao Quang Dinh tại người đánh máy sai! HT Trung Quán không biết dịch thiếu 1/3 trang của quyển Hạ. Chư Phật, Bồ Tát ở quyển thượng thứ tự đảo ngược. Đọc cẩn thận và đánh máy cũng như vậy. Tùy hỷ bạn.

Hao Quang Dinh Pram Nguyen dạ Thầy, Em có bản viết tay của HT Thích Thiện Tâm ạ 🙏🙏🙏

Lien Lan Con xin tri Ân công Đức vô lượng Ngài rất nhiều đã khai thi cho con và mọi người.Con nguyện xin giữ vững mãi niềm tin Chánh pháp do Người truyền dạy Om Ma Ni Padme Hum

Võ Trường Dạ thưa chú Pram Nguyen . Vì 1 chút cơ duyên nên con được biết đến lục tự đại minh và trì miên mật trong 3 năm qua như kẻ mù đi trong bóng tối . Với lòng mong cầu giải thoát , nay có duyên lành được biết đến chú . Xin chú mở lòng từ mà hoan hỉ chỉ dạy con pháp tu lục tự Đại Minh . Con xin tri ân công đức chú ạ .

Nguyễn Yến Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Bồ Tát 🙏🙏🙏 Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát 🙏🙏🙏 Kính tri ân Thầy đã chỉ dạy ạ

PT Thắm Cảm tạ công ơn của chú 🙏🙏🙏

Liêm Pham Vỡ oà tất cả. Con cảm tạ chú và chị đã khai thị. OM MANI PADME HUM 🙏🙏🙏

Lê Hoàn Ngọc Tú Rãnh tay được cầm điện thoại hoặc ngủ dậy sẽ liền vô trang của chú để học hỏi , cảm tạ chú pram . ❤

Tài Thành Phan Nam mô pháp thân thanh tịnh tuỳ lô giá na Phật

Ta Na Dạ cảm ơn chú ạ. Hum padme mani Om. Om mani padme Hum.

Pram Nguyen Cẩn thận khi đọc ngược. Đang tu đọc thuận thôi. Khi giáo hóa quỷ thần hay người có tín tâm thì khởi ngược lại, Đi thuận dòng sanh tử mà hóa độ.

Ta Na Pram Nguyen Dạ chú.

Sunshine Nguyen Con xin cam ơn ngai không ngại ngay đêm thức khuya, dậy sớm truyền dạy pháp báo . Nguyện cho những ai hữu duyên đọc bài thần chú này hiểu được ý nghĩa thậm thâm được công Đức như kinh thuyết