Ý Nghĩa Phương Pháp Luận / Top 14 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Thanhlongicc.edu.vn

Phương Pháp Luận Là Gì? Ý Nghĩa Nghiên Cứu Phương Pháp Luận

Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc các lý thuyết về cớ chê sáng tạo, những quan điểm tiếp cận đôi tượng khoa học, cùng với hệ thống lý thuyết về phương pháp kỹ thuật và lôgíc tiên hành nghiên cứu một công trình khoa học cũng như phương pháp tổ chức , quản lý qúa trình ấy. Vậy khái niệm phương pháp luận là gì, ý nghĩa phương pháp luận nghiên cứu khoa học là gì? Bạn cùng chúng tôi tìm hiểu qua bài viết sau đây.

+ Tổng hợp mẫu lời mở đầu bài tiểu luận các ngành mới nhất

+ Tổng hợp các đề tài luận văn thương mại điện tử hay nhất

1. Phương pháp luận là gì?

Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri thức về các quy luật khách quan dùng để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã xác định.

Vậy phương pháp luận là gì? Phương pháp luận (Methodology) là học thuyết hay lý luận về phương pháp. Đó là hệ thống những quan điểm (nguyên lý) chỉ đạo, xây dựng các nguyên tắc hợp thành phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng có hiệu quả. Trong đó quan trọng nhất là các nguyên ly có quan hệ trực tiếp với thế giới quan, có tác dụng định hướng việc xác định phương hướng nghiên cứu, tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Phương pháp và phương pháp luận là khác nhau.

Phương pháp là phạm trù rất rộng, cho liên phạm vi bao quát của phương pháp luận rất lớn. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đặt ra cho mình hàng loạt những nhiệm vụ quan trọng sau đây:

+ Nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất của khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết các quy luật phát triển của khoa học hiện đại.

+ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế tư duy sáng tạo trong nhận thức của nhà khoa học và các kỹ năng thực hành sáng tạo của họ.

+ Nghiên cứu những quan điểm tổng quát, những cách tiếp cận đối tượng nhận thức, đồng thời xây dựng hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học, với tư cách là con đường, cách thức và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể, đây là vấn đề trung tâm của phương pháp luận.

+ Phương pháp luận khẳng định phương pháp nghiên cứu khoa học không những nằm trong lôgíc nhận thức mà còn nằm trong cấu trúc nội dung một công trình khoa học. Cho nên Phương pháp luận nghiên cứu khoa học một mặt xác định các bước đi trong tiến trình nghiên cứu một đề tài, mặt khác còn tìm ra cấu trúc lôgic nội dung của các công trình khoa học đó.

+ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng chú ý đến phương pháp tổ chức, quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, coi đó là một khâu ứng dụng chính các thành tựu khoa học, nhằm nâng cao tiềm lực khoa học và tổ chức quá trình nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao.

Tóm lại phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc các lý thuyết về cớ chê sáng tạo, những quan điểm tiếp cận đôi tượng khoa học, cùng với hệ thống lý thuyết về phương pháp kỹ thuật và lôgíc tiên hành nghiên cứu một công trình khoa học cũng như phương pháp tổ chức , quản lý qúa trình ấy.

– Khoa học hiện đại có kết cấu bởi nhiều thành phần, trong đó có ba bộ 4 phận chủ yếu và quan trọng sau đây:

+ Hệ thống những khái niệm phạm trù, những quy luật, các lý thuyết, học thuyết khoa học.

+ Hệ thống trí thức ứng dụng đưa các thành tựu khoa học vào sản xuất và quản lý xã hội, nhằm cải tạo thực tiễn.

+ Hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu, về các con đường tìm tòi, sáng tạo khoa học.

Vậy vị trí của phương pháp luận là gì? Phương pháp luận chính là một trong ba bộ phận quan trọng của khoa học.

– Nghiên cứu khoa học luôn là sáng tạo và cách mạng, trong mỗi giai đoạn phát triển của khoa học hiện đại đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới đối với khoa học, phải tìm ra các phương pháp nghiên cứu mới, phải phát hiện ra các con đường mới để ứng dụng khoa học vào thực tiễn. Có thể nói: Hoàn thiện về phương pháp luận là sự đòi hỏi thường xuyên của sự phát triển khoa học hiện đại.

– Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là kết quả của quá trình khái quát lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu khoa học và nó trở thành công cụ sắc bén để chỉ dẫn tất cả các nhà khoa học và các nhà quản lý trong công tác tổ chức, quản lý và thực hành sáng tạo khoa học.

– Ngày nay trong thế giới hiện đại, để hoàn thành có chất lượng bất cứ một loại công việc nào, nhà chuyên môn cũng phải là người sáng tạo, có ý thức tìm tòi các con đường, các phương pháp tạo động mới. Thiếu tinh thần sáng tạo không có chỗ đứng trong cuộc sống đầy sôi động. Cải tiến chuyên môn thông qua con đường hoạt động thực tiễn của mình đã góp phần làm phát triển khoa học và công nghệ. Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học không chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn.

Tóm lại, phương pháp luận nghiên cứu khoa học là một bộ phận quan trọng của khoa học. Hoàn thiện phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự tự ý thức về sự phát triển của bản thân khoa học. Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học không chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn.

Tham khảo tại nguồn: Tri Thức Cộng Đồng

Phương Pháp Luận Là Gì? Ý Nghĩa Và Phân Loại Phương Pháp Luận

1.1. Phương pháp luận là gì

Phương pháp luận là mặt học thuyết hay lý luận về phương pháp, hay hệ thống những quan điểm, nguyên lý đã được công nhận là chuẩn xác và sử dụng hiệu quả.

Theo như quan điểm của triết học Mác – Lênin thì phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn.

Phương pháp luận là một phạm trù rất rộng, phạm vi bao quát của phương pháp luận rất lớn. Cho nên để biết rõ về phương pháp luận cần hiểu rõ ý nghĩa của nó. Một số ví dụ nổi bật về phương pháp luận:

Phương pháp Hiện tượng học (Phenomenology)

Phương pháp Dân tộc học (Ethnography)

Phương pháp Lý thuyết cơ sở (Grounded Theory)

1.2. Ý nghĩa của phương pháp luận

Phương pháp luận là gì là điều mà chúng ta cứ mãi thắc mắc và đã được hé lộ ở trên. Thế ý nghĩa phương pháp luận ra sao, nó có thật sự quan trọng hay không?

Có phương pháp luận, bài nghiên cứu của bạn không những logic trong cấu trúc câu từ mà nội dung có sức thuyết phục rất cao. Phương pháp luận có ý nghĩa như cách để xác định hướng đi cho tiến trình nghiên cứu một đề tài và tìm ra cấu trúc logic nhất cho các công trình khoa học hiện tại.

Phương pháp luận cũng chú ý đến phương pháp tổ chức, quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, cách để nâng cao tiềm lực khoa học và để các công trình khoa học đạt hiệu quả cao.

Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp luận là những hệ thống, nguyên lý, quan điểm làm cơ sở để xây dựng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên cứu khoa học.

Các quan điểm mà phương pháp luận nghiên cứu khoa học đưa ra thường mang khuynh hướng triết học, tuy nhiên không đồng nhất với triết học.

Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học cũng được xem như là một hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc các lý thuyết về cơ chế sáng tạo.

2. Phân loại phương pháp luận

Phương pháp luận được chia làm hai loại chính, đó là:

2.1. Phương pháp luận bộ môn (ngành)

Phương pháp luận bộ môn hay phương pháp luận môn học có cấp độ hẹp nhất. Ở phương pháp này, các nguyên tắc và quan điểm được rút ra từ một lý thuyết khoa học chuyên ngành, nó phải phản ánh được quy luật của một lĩnh vực cụ thể như triết học, kiểm toán, văn học, toán học,…

2.2. Phương pháp luận chung

Phương pháp luận chung được chia thành 2 cấp độ khác nhau:

Phương pháp luận chung nhất: Là phương pháp thể hiện chung nhất để mô tả tổng quan nhất các nguyên tắc, quan điểm khái quát. Phương pháp này được sử dụng như cơ sở để xác định phương pháp luận chung và phương pháp luận ngành.

Phương pháp luận chung: Là phương pháp dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm có đối tượng được nghiên cứu chung.

Đối với phương pháp luận trong kinh tế học, các nhà kinh tế có thể chấp nhận những phương pháp luận trong ngành tự nhiên, nhưng thực tiễn xã hội là một hệ thống mở. Đó có thể là có nhiều biến số can thiệp, hoặc không nhất thiết phải kiểm soát mọi yếu tố như trong phòng thí nghiệm.

Về chủ nghĩa thực chứng, lý thuyết phải nhất quán với nhau và thể hiện được sự logic của nội dung. Ví dụ một số phát biểu về phương pháp luận “Không gì có thể được chứng minh là luôn luôn đúng”:

Chúng ta không bao giờ chắc chắn được rằng mô hình của mình là hoàn chỉnh hoặc đã thiết lập quan hệ nhân quả.

Chúng ta tiến bộ nhờ chứng minh vấn đề là sai bằng cách lặp lại các thử nghiệm và loại bỏ những vướng mắc không có tác dụng.

Phương Pháp, Phương Pháp Luận Và Vai Trò Của Phương Pháp Luận Triết Học Mác Lênin

ThS. Trần Thiên Tú Phó Trưởng khoa LL M-LN, TT HCM `

Ngoài chức năng thế giới quan, phương pháp luận là một trong hai chức năng cơ bản nhất của triết học, nó định hướng cho con người xác định, lựa chọn, sử dụng phương pháp trong nhận thức và hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay, do chưa nghiên cứu sâu, có nhiều người vẫn hiểu chưa đúng và chưa phân biệt giữa phương pháp luận với phương pháp luận triết học; ngoài ra, họ còn đồng nhất phương pháp với phương pháp luận, phương pháp luận với phương pháp hệ, phương pháp luận với phương pháp luận triết học. Việc nhầm lẫn này sẽ đánh giá không đúng vị trí, vai trò của triết học trong cuộc sống cũng như hạ thấp chức năng của triết học. Hiểu đúng về phương pháp luận nói chung và phương pháp luận triết học nói riêng sẽ có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là đối với hoạt động dạy và học lý luận. Trong giảng dạy lý luận, đặc biệt là triết học, giảng viên sẽ phải chú trọng nhiều hơn đến phần ý nghĩa phương pháp luận; trong quá trình học tập, học viên sẽ hiểu sâu phần này hơn; trong hoạt động thực tiễn, con người sẽ biết vận dụng sáng tạo, triệt để hơn lý luận vào thực tế. Tất cả những điều này sẽ giúp con người hiệu quả hơn trong hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tầm quan trọng như trên, con người phải được trang bị lý luận về phương pháp luận, đặc biệt là phương pháp luận triết học. Để hiểu đúng về phương pháp luận, chúng ta phải hiểu về khái niệm phương pháp, phương pháp luận, phương pháp hệ; các cấp độ của phương pháp và phương pháp luận; vai trò của phương pháp luận triết học. 1. Phương pháp, phương pháp hệ, phương pháp luận a. Phương pháp (methos): Có các cách hiểu về phương pháp như sau:

– Phương pháp là cách thức nghiên cứu, nhìn nhận các hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội, ví dụ: phương pháp biện chứng, phương pháp so sánh thực nghiệm. – Phương pháp là hệ thống các cách sử dụng để tiến hành một hoạt động nào đó, ví dụ: phương pháp học tập, làm việc có phương pháp.

Theo phạm vi ảnh hưởng, có thể phân phương pháp thành các cấp độ sau: – Phương pháp riêng (ngành): là các phương pháp chỉ sử dụng trong các ngành riêng biệt. Mỗi khoa học đều có các phương pháp đặc thù, chỉ sử dụng riêng trong ngành mình, không thể sử dụng cho ngành khác; ví dụ: ẩn dụ, thậm xưng, … trong văn học; log, tích phân, … trong toán học. – Phương pháp chung: là các phương pháp có thể được áp dụng trong nhiều ngành khác nhau; ví dụ: quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, điều tra xã hội học, xác suất thống kê, … – Phương pháp chung nhất: là các phương pháp có thể sử dụng cho tất cả các ngành khoa học, đó là phương pháp của triết học. b. Phương pháp hệ (Methodica): là nhóm các phương pháp được sử dụng phối hợp trong một lĩnh vực khoa học hay một đề tài cụ thể; là hệ thống các thủ thuật hoặc biện pháp để thực hiện có tuần tự, có hiệu quả một công trình nghiên cứu khoa học. Sử dụng phối hợp các phương pháp là cách tốt nhất phát huy các điểm mạnh và khắc phục điểm yếu của từng phương pháp. Đồng thời chúng hỗ trợ, bổ sung, kiểm tra lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu và để khẳng định tính xác thực của các luận điểm khoa học. Như vậy, thì phương pháp hệ thống nhất với nghĩa thứ 2 của “phương pháp” và được sử dụng trong nghiên cứu khoa học. c. Phương pháp luận (Methodology): hiện nay, có nhiều cách hiểu gần giống nhau về phương pháp luận. Có ba cách hiểu phổ biến nhất:

Luận về một phương pháp

Hệ thống các phương pháp

Khoa học hoặc lý thuyết về phương pháp

Cũng như phương pháp, có thể phân ra các cấp độ phương pháp luận. Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau: phương pháp luận ngành là phương pháp luận của các ngành khoa học cụ thể; phương pháp luận chung là các quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng nghiên cứu chung nào đó; phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học) khái quát các quan điểm, nguyên tắc chung nhất làm cơ sở cho việc xác định các phương pháp luận ngành, chung và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn. Vì phương pháp luận mang tính lý luận cao nên nó có màu sắc triết học, tuy nhiên, không thể đồng nhất phương pháp luận và phương pháp luận triết học. Phương pháp luận của Triết học Mác – Lênin đáp ứng những đòi hỏi của nhận thức khoa học hiện đại cũng như hoạt động cải tạo và xây dựng thế giới mới. 2. Vai trò của phương pháp luận triết học Mác – Lênin Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực tiễn thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng các phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng vai trò định hướng trong quá trình tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó, triết học đóng vai trò là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học giữ vai trò định hướng cho quá trình củng cố và phát triển thế giới quan của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng trong lịch sử. Trang bị thế giới quan đúng đắn mới chỉ là một mặt của triết học Mác – Lênin. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận của triết học Mác – Lênin đã góp phần quan trọng chỉ đạo, định hướng cho con người trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chính vì những điều trên, trong quá trình giảng dạy triết học, giảng viên cần phải chú trọng hơn vào phần ý nghĩa phương pháp luận, tập trung làm rõ nội dung ý nghĩa phương pháp luận. Trong kết cấu, phần ý nghĩa phương pháp luận nằm ở cuối bài, ngay sau phần nội dung. Phần này định hướng cho học viên áp dụng kiến thức lý luận đã học vào trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Theo logic thì đây chính là phần cần thiết nhất, phục vụ trực tiếp cho người học. Học viên cần phải nắm vững và ghi nhớ phần này. Để làm được điều đó, giảng viên cần phải chỉ rõ cơ sở lý luận để rút ra ý nghĩa phương pháp luận đó, như thế học viên mới có cơ sở để thừa nhận ý nghĩa phương pháp luận đó bằng sự hiểu biết có cơ sở khoa học chứ không phải bằng sự áp đặt. Cơ sở của ý nghĩa thường nằm ở phần nội dung, chẳng hạn cơ sở của quan điểm khách quan chính là tính thứ nhất của vật chất, cơ sở của quan điểm toàn diện là ở mối liên hệ phổ biến. Vì vậy, giảng viên cần phải chỉ ra mối liên hệ giữa nội dung và phần ý nghĩa, qua đó, họ viên có sự liên tưởng logic hơn.

[1] Lê Tử Thành: Logic học và phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB. Trẻ, chúng tôi 1996, tr.18.[2] Sđd, tr.19

Ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Quy Luật Lượng Chất

Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây: – Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, …

Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây:

– Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”, “góp gió thành bão”,… Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.– Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng. – Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể. Mặt khác, đời sống xã hội của con người rất đa dạng, phong phú do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố. Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể ấy thay đổi có tính chất toàn bộ thì rất có thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh.

Ý Nghĩa Phương Pháp Luận Tất Nhiên Và Ngẫu Nhiên

Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên qua 1 ví dụ trong lĩnh vực xã hội.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

Cặp phạm trù “tất nhiên” và “ngẫu nhiên” là một trong những cặp phạm trù cơ bản của Triết học nói chung và cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng. Nói là cơ bản vì nó chính là một sản phẩm khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của phép biện chứng. Cùng với các cặp phạm trù khác, “tất nhiên” và “ngẫu nhiên” đã xây dựng nên cho Triết học một nền tảng lý luận vững chắc, cơ bản để từ đó Triết học giải quyết được nhiều vấn đề khác.

1. Khái niệm về cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

Tất nhiên là một phạm trù dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định thì nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được

Ngược lại với phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên lại là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, sự vật quyết định mà lại do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc có thể xuất hiện như thế khác.v.v..

2. Quan hệ biện chứng giữa ngẫu nhiên và tất nhiên

Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên luôn có một mối quan hệ với nhau. Và quan hệ đó được thể hiện ở những điểm sau:

Một là, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định đối với sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng, trong đó cái tất nhiên đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, trong quá trình vận động không phải chỉ có tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên cũng đóng góp một phần đáng kể. Nếu mà cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự vật diễn ra nhanh hay chậm.

Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thương xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa cho nhau

Tất nhiên và ngẫu nhiên cùng với mối quan hệ giữa chúng không chỉ góp phần xây dựng lên phép biện chứng duy vật mà nó còn có ý nghĩa đưa lại cho chúng ta bài học trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống hàng ngày:

Một là, trong hoạt động tư duy và thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái gắn liền với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không.

Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiênnagaaxuoong tách rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên và khi dựa vào cái tất nhiên thì ta cũng phải chú ý đến cái ngẫu nhiên

Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, ta cần tạo ra những điều kiện nhất định để cản trỏe hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất đinh, phù hợp với mong muốn của chúng ta.

4. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên qua 1 ví dụ trong lĩnh vực xã hội

a. Khái niệm của phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

Xét về khái niệm phạm trù tất nhiên, để chứng minh cho nó, ta thấy: ở ví dụ đã nêu thì việc đỗ đại học là một điều”tất nhiên” với mỗi chúng ta bởi lẽ: Một là, trong việc từ một học sinh trung học phổ thông mà muốn trở thành sinh viên của trường đại học luật Hà Nội thì điều tất nhiên là ta phải đỗ vào kì thi tuyển sinh đầu vào.

Việc đỗ Đại học này với mỗi chúng ta bắt buộc phải xảy ra vì nó là điều kiện để ta thực hiện bước chuyển hóa của ta từ học sinh thành sinh viên. Hai là, xét với mối quan hệ với những việc xảy ra trước đó thì việc đỗ vào đại học luật Hà Nội là tất yếu vì: ta có một quá trình rèn luyện học tập tốt từ thời THPT, bản thân ta là người có ý thức trong việc đưa ra quyết định thi vào trường đại học luật Hà Nội …và có thể kể đến những yếu tố khác như sức khỏe ,tâm lý ngày thi rất tốt .v.v.

Và như vậy, khi một thí sinh dự thi mà hội tụ được những điều cơ bản như trên thì việc thí sinh đó trở thành sinh viên của trường đại học luật Hà Nội là tất nhiên, nhất định không thể nào khác được.

Xét về khái niệm phạm trù ngẫu nhiên, ta có thể xem xé ví dụ, chẳng hạn như việc xếp lớp, xếp nhóm và điển hình là 11 bạn trong nhóm A3 của lớp 18 này: Sau khi đỗ vào trường Đại học Luật Hà Nội thì với sự sắp xếp của phòng Đào tạo nhà trường 11 bạn này sẽ được ngẫu nhiên ngồi chung một lớp – lớp 18 và ngẫu nhiên họ lại được tập hợp thành 1 nhóm và được đặt là A3.

Việc ngồi chung một lớp hay một nhóm này không phải do các bạn tự quyết định, cũng không phải do sự sắp đặt sẵn của nhà trường: những bạn có tên, có điểm, có khối thi…như thế này phải vào lớp này, nhóm này. Điều này chính là do nhân tố bên ngoài quyết định. Ở đây nhân tố bên ngoài chính là sự sắp xếp một cách ngẫu nhiên của hệ thống máy tính, của phòng đào tạo đã tạo ra kết quả đó.

Tóm lại việc chúng ta – những sinh viên đang học ở K3818 việc đỗ đại học là điều tất nhiên, nhưng trước đó chúng ta cũng phải trải qua nhiều việc ngẫu nhiên khác như chọn trường, may mắnv.v.v.. Và việc sau này khi chúng ta được học chung một lớp liệu điều đó có phải là yếu tố “ngẫu nhiên” nữa hay không hay đó cũng có thể là “tất nhiên” ? Và liệu rằng yếu tố “ngẫu nhiên” trong việc được học chung một lớp sẽ ảnh hưởng đến yếu tố “tât nhiên” khi chúng ta đỗ vào trường đại học luật Hà Nội như thế nào? Để giải quyết vấn đề này, chúng ta hãy xét chúng trong mối liên hệ biện chứng của chúng.

Để đi sâu hơn về cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên trong mối quan hệ biện chứng của chúng với nhau , thông qua ví dụ ban đầu, ta cần tìm hiểu “biện chứng” là gì ? Biện chứng ở đây là dùng để chỉ những mối liên hệ với nhau, là sự tương tác, sự chuyển hóa, sự vận động và phát triển theo quy luật của sự vật, hiện tượng và quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy

b. Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên trong ví dụ

Một là, tất nhiên và ngẫu nhiên luôn tồn tại khách quan. Mỗi chúng ta, trước khi xác định đi thi đại học, đều đã hình thành trong đầu hai luồng suy nghĩ trái chiều, đó là hai khả năng có thể xảy ra: hoặc là đỗ hoặc là trượt. Ngay từ ban đầu, chúng ta đều nhận thức được rằng muốn đỗ vào đại học phải trang bị cho bản thân đầy đủ những kiến thức cơ bản: đó có thể là quá trình học tập tích lũy kiến thức, phương pháp học tập để hiểu sâu nhớ lâu, mục đích học tập …

Khi đó, chúng ta mới chỉ trang bị cho bản thân về mặt tinh thần, đó là những điều tất nhiên phải làm. Nhưng trong lúc thi xảy ra sự cố về tâm lý,sức khỏe … thi chẳng phải việc chúng ta đỗ hay trượt nằm ngoài ý thức của chúng ta hay sao và yếu tố ngẫu nhiên và tất nhiên tồn tại đối lập với ý thức của chúng ta hay sao ?

Không những vậy, tất nhiên còn có vai trò quyết định chi phối đến sự phát triển của sự vật và cái ngẫu nhiên thì có tác dụng làm cho sự phát triển của sự vật diện ra nhanh hay chậm. Trở lại với ví dụ ban đầu chúng ta đã đưa ra một ý rằng: “ngẫu nhiên chúng ta được học chung một lớp” điều ngẫu nhiên này tác động như thế nào với yếu tố tất nhiên chúng ta đỗ hay trượt vào trường đại học luật Hà Nội.

Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại trong sự thống nhất, biện chứng với nhau, không có cái tất nhiên thuần túy và cái ngẫu nhiên thuần túy. Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên và ngẫu nhiên là biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên.

Xét trên biện chứng của ví dụ ban đầu thì việc chúng ta đỗ đại học là điều tất nhiên, nhưng để làm nên các tất nhiên này thì chúng ta phải trải qua vô số cái ngẫu nhiên khác. “Theo tâm lý học, nhận thức của con người chỉ huy mọi hành động và hoạt đọng của con người. Hệ quả của quan hệ này là nhận thức đúng mới tạo ra hành động đúng đắn và kết quả tôt đẹp”(1).

Vì vậy cái ngẫu nhiên mà chúng ta muốn đề cập là: phương pháp học tập đúng đắn sẽ rèn luyện khả năng tư duy cho bản thân, tạo động lực học tập, đặt mục tiêu, mơ ước cho bản thân trước khi xác định vào trường đại học Luật và thêm vào đó là những yếu tố như: chuẩn bị một sức khỏe tốt ,tâm lý vững vàng khi bước vào kì thi. Và những yếu tố ngẫu nhiên này chẳng phải dẫn tới việc tất yếu chúng ta cầm được tấm vé bước vào cánh cổng đại học hay sao?

Tuy nhiên đúng như Ph.Anghen đã nhận định: ” … cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên thuần túy cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu…”(2). Việc chúng ta thi đại học thì luôn luôn xảy ra nhiều khả năng. Và chẳng phải điều đó có nghĩa rằng cái mà chúng ta cho là tất yểu là việc đỗ đại học lại thực ra chỉ là một khả năng, một điều ngẫu nhiên hay sao? Vậy thì quả thực ngẫu nhiên là biểu hiện của tất nhiên

Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng ta có thể chuyển hòa cho nhau, tự nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngẫu nhiên trở thành tất nhiên.

Hãy quay trở về phân tích vừa trên ta sẽ thấy rõ việc tự nhiên và ngẫu nhiên chuyển hóa cho nhau trong vấn đề: tất nhiên biến thành ngẫu nhiên. Chúng ta nói rằng ngẫu nhiên phương pháp học tập của chúng ta là đúng đắn, rèn luyện kiến thức phù hợp với bài thi khi thi đại học, mục đích, mục tiêu đặt ra là sẽ thi vào đại học Luật, đi thi lại có sức khỏe, tâm lý vững vàng… Nhưng suy

Bình thường đứng trước một kì thi mang tính quyết định, tạo bước ngoạt mới cho cuộc đời, không lẽ ta lại để bản thân gặp vấn đề tâm lý? Vì thế tất yếu ta phải chuẩn bị một tâm lý vững vàng nhất định trước khi bước vào kì thi đại học… Vì thế chẳng phải việc ta trở thành sinh viên đại học Luật không phải là. Sau khi đã phân tích ví dụ từ tự nhiên đến ngẫu nhiên thì sau đây bằng việc phân tích ví dụ ban đầu ta sẽ thấy sự chuyển hóa từ ngẫu nhiên thành tất nhiên.

Chúng ta đã nói: ” Ngẫu nhiên được ngồi chung một lớp”. Liệu đây có phải là ngẫu nhiên nữa hay không. Sau khi đỗ đại học Luật Hà Nội, thì tên của chúng ta đã phải chăng đã được phòng đào tạo của trường sắp xếp từ trước thông qua các nguyên tắc: có thể là theo vần a, b, c…; có thể là theo mã số sinh viên; có thể là phòng đào tạo không sắp xếp theo vần mà muốn lớp nào cũng có cả nam và nữ vì lượng thí sinh nam đỗ vào trường là ít hơn hẳn so với thí sinh nữ …

Như vậy tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại vĩnh viễn mà luôn chuyển hóa qua lại lẫn nhau và mang tính tương đối. Có thể trong mối quan hệ này nó được coi là ngẫu nhiên nhưng trong mối quan hệ khác lại là tất nhiên và ngược lại.

Sau khi đã nói đến 1 loạt các yếu tố về quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên thì chúng ta sẽ tự đặt ra câu hỏi rằng: bản thân cặp phạm trù này và mối liên hệ của nó có tác động thế nào tới tư duy và thực tiễn của chúng ta? Và từ ý nghĩa thực tiễn đó, có phải sẽ giúp ta có được những phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với những trường hợp cụ thể trong cuộc sống ngày nay? Để từ đó khi đứng trước 1 vấn đề ta sẽ không còn cảm thấy quá lúng túng và lo lắng nữa.

c. Ý nghĩa của phương pháp luận trong tư duy và thực tiễn

Đầu tiên, trong hoạt động thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái gắn liền với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không .

Thật vậy, nếu khi xét trở về ví dụ mà ta đã nêu ra thì chẳng phải tất cả kế hoạch ban đầu ta xây dựng nên nào là: phương pháp học tập, mục đích học tập, rèn luyện kĩ năng trong học tập, …. Cũng chỉ là nhằm vào mục tiêu cốt lõi đó là việc thi đỗ đại học. Việc đỗ vào đại học chính là một bước chuyển mình từ học sinh phổ thông sang môi trường giáo dục hoàn toàn mới đó là đại học, không những vậy, đây còn là một bước ngoặt, bước đà để ta có thể tiến xa hơn trên con đường học vấn. Còn việc chúng ta được học chung một lớp, theo cá nhân tôi nghĩ, thì đây không phải là việc quan trọng. Vì ngay từ khi biết tin mình đỗ đại học, liệu rằng có ai nghĩ mình sẽ học ở lớp nào đâu ?, đó là thứ nhất.

Thứ hai, việc mình học ở lớp nào thì chương trình tạo của trường Đại học Luật Hà Nội vẫn là như thế.

Thứ ba, việc phân lớp cho mỗi sinh viên sẽ có lợi hơn cho nhà trường trong hoạt động quản lí sinh viên, giúp cho sinh viên dễ dàng tương tác làm việc với nhà trường được hiệu quả hơn ,… mà điều này khi ta ở bất kì một lớp nào thì nhà trường cũng có thể làm được .

Tuy nhiên, cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên. Vì cái ngẫu nhiên không chỉ chi phối sự phát triển của sự vật mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc .

Đúng, thực sự là như vậy. Tuy việc chúng ta được sắp xếp bất ngờ vào một lớp ở phân tích trên cho rằng đó là điều không cần thiết, nhưng nó lại cần thiết cho quá trình học tập sau này. Đầu tiên, việc được sắp xếp vào một lớp cố định chúng ta đã hoàn toàn chứng minh được rằng chúng ta chính là một sinh viên trường đại học luật Hà Nội kể từ đây.

Thứ hai, khi được học chung một lớp, cái thuận tiện đó là không gian học tập cộng đồng đã được thu hẹp phần nào ; mặt khác ở đây, ta dễ dàng làm quen nhiều bạn mới một cách thuận tiện hơn, tạo cho ta một không gian học tập thoải mái hơn, việc tiếp thu kiến thức mới se diễn ra nhanh hơn …. Với một không gian học tập lành mạnh như thế này thì không lẽ gì kết quả học tập cuối kì của chúng ta lại không đạt kết quả tốt. Đó chính là việc cái ngẫu nhiên chi phối đến sự phát triển của sự vật, ảnh hưởng sâu sắc đến sự vật .

Tóm lại, với phương pháp luận này đã cung cấp cho chúng ta phương pháp tiếp cận vấn đề một cách chủ động hơn. Do đó khi làm một việc gì cần xuất phát từ những yếu tố ban đầu,những yếu tố góp phần triển khai những nội dung chính nhất,phù hợp nhất để tạo một bước đà thật vững chắc nhằm đạt được mục đích ban đầu mình đề ra. Đồng thời,trong hoạt động thực tiễn,với những phương pháp ta chủ động đề ra cần phải xây dựng thêm những phương pháp dự phòng để đáp ứng những thay đổi bất ngờ có thể xảy ra.

Phương pháp dự phòng để đáp ứng những thay đổi bất ngờ có thể xảy ra

Cái tất nhiên và ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa cho nhau,cái ngẫu nhiên biến thành tất nhiên và ngược lại. Vì vậy cần tạo ra những điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất định.

Trước tiên,với ví dụ ban đầu,ta sẽ thấy được cái ngẫu nhiên cản trở như thế nào với cái tất nhiên xét về lĩnh vực học tập? Trong số những sinh viên K3818 sẽ có những bạn đã quen biết hoặc có những anh chị là sinh viên khóa trên.Vì là các anh chị khóa trên nên cũng phải trải qua quá trình học tập cực kỳ vất vả khi học tập tại trường và do đó các anh chị biết môn nào giáo viên sẽ lới lỏng cho sinh viên để giảm bớt áp lực trong quá trình học tập.

Nhưng nếu bản thân những anh chị đó lơ là trong việc học tập,lợi dụng sự ưu ái của giáo viên mà không quan tâm tới việc học của mình thì chỉ cần câu nói như: “Môn ý dễ mà,học làm gì cho mệt,thể nào thi chẳng được qua”, hay như : “ui giời,là sinh viên mà không phải thi lại thì không phải là sinh viên”…Với những lời nói như vậy đã vô tình tác động tiêu cực vào tiềm thức của những bạn sinh viên mà có anh chị như vậy. Và rồi bạn sẽ không còn hứng thú với môn học đó,lơ là và cuối cùng sẽ dẫn đến tình trạng chán nản. Một điều tất nhiên sẽ xảy ra là kết quả học tập môn đó bị kém,phải học lại,gây lãng phí thời gian,lãng phí tiền của…

Sau khi nói đến ngẫu nhiên cản trở quá trình của tất nhiên,thì quay trở lại vấn đề,không thể phủ nhận được ngẫu nhiên cũng góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật. Ví dụ như trong quá trình học tập tại trường đại học luật,sau khi mỗi sinh viên được phân về từng lớp thì mỗi sinh viên lại được phân về thành từng nhóm.

Đây là một cách thức giảng dạy rất hay,là mô hình đào tạo được áp dụng trong hệ thống giáo dục của các nước phương Tây như Anh,Pháp,Mỹ…Làm việc theo nhóm sẽ nâng cao khả năng thuyết trình,hùng biện cho mỗi người,đặc biệt là với sinh viên trường mình. Thông qua hoạt động học nhóm này chính chúng ta sẽ chứng tỏ được khả năng lãnh đạo,sự tự tin của bản thân là tiền đề vững chắc để tiến bước xa hơn trên con đường sự nghiệp.

Tóm lại,với phương pháp luận này cung cấp cho chúng ta một vấn đề cần thiết trong cuộc sống:trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không được xem nhẹ mọi sự vật,hiện tượng dù là rất nhỏ đang diễn ra xung quanh ta. Trước khi thực hiện một công việc cần xem xét nó là điều có lợi hay có hại cho bản thân chúng ta. Việc đánh giá việc làm đó chính là cái kết quả cuối cùng mà ta sẽ nhận được.

Qua việc phân tích một ví dụ cụ thể trong cuộc sống giúp chúng ta phần nào nhận thức được rõ hơn tại sao trong phép biện chứng duy vật cần phải có cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Việc phân tích này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết thuần túy, mà qua đây sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về những sự vật ,hiện tượng diễn ra trong cuộc sống, và khi nhận thức được vấn đề thì chúng ta sẽ thực hiện nó theo chiều hướng tích cực, đi lên.