Ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Quy Luật Lượng Chất / Top 5 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 5/2023 # Top View | Thanhlongicc.edu.vn

Ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Quy Luật Lượng Chất

Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây: – Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, …

Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau đây:

– Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động của mình, ông cha ta đã rút ra những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”, “góp gió thành bão”,… Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc làm bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.– Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, “hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng. – Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể hay quan hệ cụ thể. Mặt khác, đời sống xã hội của con người rất đa dạng, phong phú do rất nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố. Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con người có thể tác động vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi. Trong một tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể ấy thay đổi có tính chất toàn bộ thì rất có thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh.

Phương Pháp Luận Là Gì? Ý Nghĩa Và Phân Loại Phương Pháp Luận

1.1. Phương pháp luận là gì

Phương pháp luận là mặt học thuyết hay lý luận về phương pháp, hay hệ thống những quan điểm, nguyên lý đã được công nhận là chuẩn xác và sử dụng hiệu quả.

Theo như quan điểm của triết học Mác – Lênin thì phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn.

Phương pháp luận là một phạm trù rất rộng, phạm vi bao quát của phương pháp luận rất lớn. Cho nên để biết rõ về phương pháp luận cần hiểu rõ ý nghĩa của nó. Một số ví dụ nổi bật về phương pháp luận:

Phương pháp Hiện tượng học (Phenomenology)

Phương pháp Dân tộc học (Ethnography)

Phương pháp Lý thuyết cơ sở (Grounded Theory)

1.2. Ý nghĩa của phương pháp luận

Phương pháp luận là gì là điều mà chúng ta cứ mãi thắc mắc và đã được hé lộ ở trên. Thế ý nghĩa phương pháp luận ra sao, nó có thật sự quan trọng hay không?

Có phương pháp luận, bài nghiên cứu của bạn không những logic trong cấu trúc câu từ mà nội dung có sức thuyết phục rất cao. Phương pháp luận có ý nghĩa như cách để xác định hướng đi cho tiến trình nghiên cứu một đề tài và tìm ra cấu trúc logic nhất cho các công trình khoa học hiện tại.

Phương pháp luận cũng chú ý đến phương pháp tổ chức, quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, cách để nâng cao tiềm lực khoa học và để các công trình khoa học đạt hiệu quả cao.

Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp luận là những hệ thống, nguyên lý, quan điểm làm cơ sở để xây dựng các phương pháp và định hướng cho việc nghiên cứu khoa học.

Các quan điểm mà phương pháp luận nghiên cứu khoa học đưa ra thường mang khuynh hướng triết học, tuy nhiên không đồng nhất với triết học.

Phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học cũng được xem như là một hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc các lý thuyết về cơ chế sáng tạo.

2. Phân loại phương pháp luận

Phương pháp luận được chia làm hai loại chính, đó là:

2.1. Phương pháp luận bộ môn (ngành)

Phương pháp luận bộ môn hay phương pháp luận môn học có cấp độ hẹp nhất. Ở phương pháp này, các nguyên tắc và quan điểm được rút ra từ một lý thuyết khoa học chuyên ngành, nó phải phản ánh được quy luật của một lĩnh vực cụ thể như triết học, kiểm toán, văn học, toán học,…

2.2. Phương pháp luận chung

Phương pháp luận chung được chia thành 2 cấp độ khác nhau:

Phương pháp luận chung nhất: Là phương pháp thể hiện chung nhất để mô tả tổng quan nhất các nguyên tắc, quan điểm khái quát. Phương pháp này được sử dụng như cơ sở để xác định phương pháp luận chung và phương pháp luận ngành.

Phương pháp luận chung: Là phương pháp dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm có đối tượng được nghiên cứu chung.

Đối với phương pháp luận trong kinh tế học, các nhà kinh tế có thể chấp nhận những phương pháp luận trong ngành tự nhiên, nhưng thực tiễn xã hội là một hệ thống mở. Đó có thể là có nhiều biến số can thiệp, hoặc không nhất thiết phải kiểm soát mọi yếu tố như trong phòng thí nghiệm.

Về chủ nghĩa thực chứng, lý thuyết phải nhất quán với nhau và thể hiện được sự logic của nội dung. Ví dụ một số phát biểu về phương pháp luận “Không gì có thể được chứng minh là luôn luôn đúng”:

Chúng ta không bao giờ chắc chắn được rằng mô hình của mình là hoàn chỉnh hoặc đã thiết lập quan hệ nhân quả.

Chúng ta tiến bộ nhờ chứng minh vấn đề là sai bằng cách lặp lại các thử nghiệm và loại bỏ những vướng mắc không có tác dụng.

Ý Nghĩa Phương Pháp Luận Tất Nhiên Và Ngẫu Nhiên

Ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên qua 1 ví dụ trong lĩnh vực xã hội.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

Cặp phạm trù “tất nhiên” và “ngẫu nhiên” là một trong những cặp phạm trù cơ bản của Triết học nói chung và cũng như của phép biện chứng duy vật nói riêng. Nói là cơ bản vì nó chính là một sản phẩm khái quát những mối liên hệ phổ biến nhất, bao quát các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của phép biện chứng. Cùng với các cặp phạm trù khác, “tất nhiên” và “ngẫu nhiên” đã xây dựng nên cho Triết học một nền tảng lý luận vững chắc, cơ bản để từ đó Triết học giải quyết được nhiều vấn đề khác.

1. Khái niệm về cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

Tất nhiên là một phạm trù dùng để chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định thì nó phải xảy ra như thế chứ không thể khác được

Ngược lại với phạm trù tất nhiên, ngẫu nhiên lại là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong kết cấu vật chất, sự vật quyết định mà lại do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp của nhiều hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó nó có thể xuất hiện có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc có thể xuất hiện như thế khác.v.v..

2. Quan hệ biện chứng giữa ngẫu nhiên và tất nhiên

Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên luôn có một mối quan hệ với nhau. Và quan hệ đó được thể hiện ở những điểm sau:

Một là, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan và đều có vai trò nhất định đối với sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng, trong đó cái tất nhiên đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, trong quá trình vận động không phải chỉ có tất nhiên mới đóng vai trò quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên cũng đóng góp một phần đáng kể. Nếu mà cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác dụng làm cho sự vật diễn ra nhanh hay chậm.

Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thương xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa cho nhau

Tất nhiên và ngẫu nhiên cùng với mối quan hệ giữa chúng không chỉ góp phần xây dựng lên phép biện chứng duy vật mà nó còn có ý nghĩa đưa lại cho chúng ta bài học trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống hàng ngày:

Một là, trong hoạt động tư duy và thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái gắn liền với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không.

Tuy nhiên không được bỏ qua cái ngẫu nhiênnagaaxuoong tách rời cái tất nhiên khỏi cái ngẫu nhiên. Cần xuất phát từ cái ngẫu nhiên để đạt đến cái tất nhiên và khi dựa vào cái tất nhiên thì ta cũng phải chú ý đến cái ngẫu nhiên

Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ mang tính tương đối, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Vì vậy, ta cần tạo ra những điều kiện nhất định để cản trỏe hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất đinh, phù hợp với mong muốn của chúng ta.

4. Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên qua 1 ví dụ trong lĩnh vực xã hội

a. Khái niệm của phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên

Xét về khái niệm phạm trù tất nhiên, để chứng minh cho nó, ta thấy: ở ví dụ đã nêu thì việc đỗ đại học là một điều”tất nhiên” với mỗi chúng ta bởi lẽ: Một là, trong việc từ một học sinh trung học phổ thông mà muốn trở thành sinh viên của trường đại học luật Hà Nội thì điều tất nhiên là ta phải đỗ vào kì thi tuyển sinh đầu vào.

Việc đỗ Đại học này với mỗi chúng ta bắt buộc phải xảy ra vì nó là điều kiện để ta thực hiện bước chuyển hóa của ta từ học sinh thành sinh viên. Hai là, xét với mối quan hệ với những việc xảy ra trước đó thì việc đỗ vào đại học luật Hà Nội là tất yếu vì: ta có một quá trình rèn luyện học tập tốt từ thời THPT, bản thân ta là người có ý thức trong việc đưa ra quyết định thi vào trường đại học luật Hà Nội …và có thể kể đến những yếu tố khác như sức khỏe ,tâm lý ngày thi rất tốt .v.v.

Và như vậy, khi một thí sinh dự thi mà hội tụ được những điều cơ bản như trên thì việc thí sinh đó trở thành sinh viên của trường đại học luật Hà Nội là tất nhiên, nhất định không thể nào khác được.

Xét về khái niệm phạm trù ngẫu nhiên, ta có thể xem xé ví dụ, chẳng hạn như việc xếp lớp, xếp nhóm và điển hình là 11 bạn trong nhóm A3 của lớp 18 này: Sau khi đỗ vào trường Đại học Luật Hà Nội thì với sự sắp xếp của phòng Đào tạo nhà trường 11 bạn này sẽ được ngẫu nhiên ngồi chung một lớp – lớp 18 và ngẫu nhiên họ lại được tập hợp thành 1 nhóm và được đặt là A3.

Việc ngồi chung một lớp hay một nhóm này không phải do các bạn tự quyết định, cũng không phải do sự sắp đặt sẵn của nhà trường: những bạn có tên, có điểm, có khối thi…như thế này phải vào lớp này, nhóm này. Điều này chính là do nhân tố bên ngoài quyết định. Ở đây nhân tố bên ngoài chính là sự sắp xếp một cách ngẫu nhiên của hệ thống máy tính, của phòng đào tạo đã tạo ra kết quả đó.

Tóm lại việc chúng ta – những sinh viên đang học ở K3818 việc đỗ đại học là điều tất nhiên, nhưng trước đó chúng ta cũng phải trải qua nhiều việc ngẫu nhiên khác như chọn trường, may mắnv.v.v.. Và việc sau này khi chúng ta được học chung một lớp liệu điều đó có phải là yếu tố “ngẫu nhiên” nữa hay không hay đó cũng có thể là “tất nhiên” ? Và liệu rằng yếu tố “ngẫu nhiên” trong việc được học chung một lớp sẽ ảnh hưởng đến yếu tố “tât nhiên” khi chúng ta đỗ vào trường đại học luật Hà Nội như thế nào? Để giải quyết vấn đề này, chúng ta hãy xét chúng trong mối liên hệ biện chứng của chúng.

Để đi sâu hơn về cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên trong mối quan hệ biện chứng của chúng với nhau , thông qua ví dụ ban đầu, ta cần tìm hiểu “biện chứng” là gì ? Biện chứng ở đây là dùng để chỉ những mối liên hệ với nhau, là sự tương tác, sự chuyển hóa, sự vận động và phát triển theo quy luật của sự vật, hiện tượng và quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy

b. Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên trong ví dụ

Một là, tất nhiên và ngẫu nhiên luôn tồn tại khách quan. Mỗi chúng ta, trước khi xác định đi thi đại học, đều đã hình thành trong đầu hai luồng suy nghĩ trái chiều, đó là hai khả năng có thể xảy ra: hoặc là đỗ hoặc là trượt. Ngay từ ban đầu, chúng ta đều nhận thức được rằng muốn đỗ vào đại học phải trang bị cho bản thân đầy đủ những kiến thức cơ bản: đó có thể là quá trình học tập tích lũy kiến thức, phương pháp học tập để hiểu sâu nhớ lâu, mục đích học tập …

Khi đó, chúng ta mới chỉ trang bị cho bản thân về mặt tinh thần, đó là những điều tất nhiên phải làm. Nhưng trong lúc thi xảy ra sự cố về tâm lý,sức khỏe … thi chẳng phải việc chúng ta đỗ hay trượt nằm ngoài ý thức của chúng ta hay sao và yếu tố ngẫu nhiên và tất nhiên tồn tại đối lập với ý thức của chúng ta hay sao ?

Không những vậy, tất nhiên còn có vai trò quyết định chi phối đến sự phát triển của sự vật và cái ngẫu nhiên thì có tác dụng làm cho sự phát triển của sự vật diện ra nhanh hay chậm. Trở lại với ví dụ ban đầu chúng ta đã đưa ra một ý rằng: “ngẫu nhiên chúng ta được học chung một lớp” điều ngẫu nhiên này tác động như thế nào với yếu tố tất nhiên chúng ta đỗ hay trượt vào trường đại học luật Hà Nội.

Hai là, tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại trong sự thống nhất, biện chứng với nhau, không có cái tất nhiên thuần túy và cái ngẫu nhiên thuần túy. Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên và ngẫu nhiên là biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên.

Xét trên biện chứng của ví dụ ban đầu thì việc chúng ta đỗ đại học là điều tất nhiên, nhưng để làm nên các tất nhiên này thì chúng ta phải trải qua vô số cái ngẫu nhiên khác. “Theo tâm lý học, nhận thức của con người chỉ huy mọi hành động và hoạt đọng của con người. Hệ quả của quan hệ này là nhận thức đúng mới tạo ra hành động đúng đắn và kết quả tôt đẹp”(1).

Vì vậy cái ngẫu nhiên mà chúng ta muốn đề cập là: phương pháp học tập đúng đắn sẽ rèn luyện khả năng tư duy cho bản thân, tạo động lực học tập, đặt mục tiêu, mơ ước cho bản thân trước khi xác định vào trường đại học Luật và thêm vào đó là những yếu tố như: chuẩn bị một sức khỏe tốt ,tâm lý vững vàng khi bước vào kì thi. Và những yếu tố ngẫu nhiên này chẳng phải dẫn tới việc tất yếu chúng ta cầm được tấm vé bước vào cánh cổng đại học hay sao?

Tuy nhiên đúng như Ph.Anghen đã nhận định: ” … cái mà người ta quả quyết cho là tất yếu lại hoàn toàn do những ngẫu nhiên thuần túy cấu thành, và cái được coi là ngẫu nhiên lại là hình thức, dưới đó ẩn nấp cái tất yếu…”(2). Việc chúng ta thi đại học thì luôn luôn xảy ra nhiều khả năng. Và chẳng phải điều đó có nghĩa rằng cái mà chúng ta cho là tất yểu là việc đỗ đại học lại thực ra chỉ là một khả năng, một điều ngẫu nhiên hay sao? Vậy thì quả thực ngẫu nhiên là biểu hiện của tất nhiên

Ba là, tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại vĩnh viễn ở trạng thái cũ mà thường xuyên thay đổi, phát triển và trong những điều kiện nhất định chúng ta có thể chuyển hòa cho nhau, tự nhiên biến thành ngẫu nhiên và ngẫu nhiên trở thành tất nhiên.

Hãy quay trở về phân tích vừa trên ta sẽ thấy rõ việc tự nhiên và ngẫu nhiên chuyển hóa cho nhau trong vấn đề: tất nhiên biến thành ngẫu nhiên. Chúng ta nói rằng ngẫu nhiên phương pháp học tập của chúng ta là đúng đắn, rèn luyện kiến thức phù hợp với bài thi khi thi đại học, mục đích, mục tiêu đặt ra là sẽ thi vào đại học Luật, đi thi lại có sức khỏe, tâm lý vững vàng… Nhưng suy

Bình thường đứng trước một kì thi mang tính quyết định, tạo bước ngoạt mới cho cuộc đời, không lẽ ta lại để bản thân gặp vấn đề tâm lý? Vì thế tất yếu ta phải chuẩn bị một tâm lý vững vàng nhất định trước khi bước vào kì thi đại học… Vì thế chẳng phải việc ta trở thành sinh viên đại học Luật không phải là. Sau khi đã phân tích ví dụ từ tự nhiên đến ngẫu nhiên thì sau đây bằng việc phân tích ví dụ ban đầu ta sẽ thấy sự chuyển hóa từ ngẫu nhiên thành tất nhiên.

Chúng ta đã nói: ” Ngẫu nhiên được ngồi chung một lớp”. Liệu đây có phải là ngẫu nhiên nữa hay không. Sau khi đỗ đại học Luật Hà Nội, thì tên của chúng ta đã phải chăng đã được phòng đào tạo của trường sắp xếp từ trước thông qua các nguyên tắc: có thể là theo vần a, b, c…; có thể là theo mã số sinh viên; có thể là phòng đào tạo không sắp xếp theo vần mà muốn lớp nào cũng có cả nam và nữ vì lượng thí sinh nam đỗ vào trường là ít hơn hẳn so với thí sinh nữ …

Như vậy tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại vĩnh viễn mà luôn chuyển hóa qua lại lẫn nhau và mang tính tương đối. Có thể trong mối quan hệ này nó được coi là ngẫu nhiên nhưng trong mối quan hệ khác lại là tất nhiên và ngược lại.

Sau khi đã nói đến 1 loạt các yếu tố về quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên thì chúng ta sẽ tự đặt ra câu hỏi rằng: bản thân cặp phạm trù này và mối liên hệ của nó có tác động thế nào tới tư duy và thực tiễn của chúng ta? Và từ ý nghĩa thực tiễn đó, có phải sẽ giúp ta có được những phương pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp với những trường hợp cụ thể trong cuộc sống ngày nay? Để từ đó khi đứng trước 1 vấn đề ta sẽ không còn cảm thấy quá lúng túng và lo lắng nữa.

c. Ý nghĩa của phương pháp luận trong tư duy và thực tiễn

Đầu tiên, trong hoạt động thực tiễn, phải căn cứ vào cái tất nhiên chứ không phải cái ngẫu nhiên. Bởi vì cái tất nhiên là cái gắn liền với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy ra, có thể không .

Thật vậy, nếu khi xét trở về ví dụ mà ta đã nêu ra thì chẳng phải tất cả kế hoạch ban đầu ta xây dựng nên nào là: phương pháp học tập, mục đích học tập, rèn luyện kĩ năng trong học tập, …. Cũng chỉ là nhằm vào mục tiêu cốt lõi đó là việc thi đỗ đại học. Việc đỗ vào đại học chính là một bước chuyển mình từ học sinh phổ thông sang môi trường giáo dục hoàn toàn mới đó là đại học, không những vậy, đây còn là một bước ngoặt, bước đà để ta có thể tiến xa hơn trên con đường học vấn. Còn việc chúng ta được học chung một lớp, theo cá nhân tôi nghĩ, thì đây không phải là việc quan trọng. Vì ngay từ khi biết tin mình đỗ đại học, liệu rằng có ai nghĩ mình sẽ học ở lớp nào đâu ?, đó là thứ nhất.

Thứ hai, việc mình học ở lớp nào thì chương trình tạo của trường Đại học Luật Hà Nội vẫn là như thế.

Thứ ba, việc phân lớp cho mỗi sinh viên sẽ có lợi hơn cho nhà trường trong hoạt động quản lí sinh viên, giúp cho sinh viên dễ dàng tương tác làm việc với nhà trường được hiệu quả hơn ,… mà điều này khi ta ở bất kì một lớp nào thì nhà trường cũng có thể làm được .

Tuy nhiên, cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên. Vì cái ngẫu nhiên không chỉ chi phối sự phát triển của sự vật mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc .

Đúng, thực sự là như vậy. Tuy việc chúng ta được sắp xếp bất ngờ vào một lớp ở phân tích trên cho rằng đó là điều không cần thiết, nhưng nó lại cần thiết cho quá trình học tập sau này. Đầu tiên, việc được sắp xếp vào một lớp cố định chúng ta đã hoàn toàn chứng minh được rằng chúng ta chính là một sinh viên trường đại học luật Hà Nội kể từ đây.

Thứ hai, khi được học chung một lớp, cái thuận tiện đó là không gian học tập cộng đồng đã được thu hẹp phần nào ; mặt khác ở đây, ta dễ dàng làm quen nhiều bạn mới một cách thuận tiện hơn, tạo cho ta một không gian học tập thoải mái hơn, việc tiếp thu kiến thức mới se diễn ra nhanh hơn …. Với một không gian học tập lành mạnh như thế này thì không lẽ gì kết quả học tập cuối kì của chúng ta lại không đạt kết quả tốt. Đó chính là việc cái ngẫu nhiên chi phối đến sự phát triển của sự vật, ảnh hưởng sâu sắc đến sự vật .

Tóm lại, với phương pháp luận này đã cung cấp cho chúng ta phương pháp tiếp cận vấn đề một cách chủ động hơn. Do đó khi làm một việc gì cần xuất phát từ những yếu tố ban đầu,những yếu tố góp phần triển khai những nội dung chính nhất,phù hợp nhất để tạo một bước đà thật vững chắc nhằm đạt được mục đích ban đầu mình đề ra. Đồng thời,trong hoạt động thực tiễn,với những phương pháp ta chủ động đề ra cần phải xây dựng thêm những phương pháp dự phòng để đáp ứng những thay đổi bất ngờ có thể xảy ra.

Phương pháp dự phòng để đáp ứng những thay đổi bất ngờ có thể xảy ra

Cái tất nhiên và ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa cho nhau,cái ngẫu nhiên biến thành tất nhiên và ngược lại. Vì vậy cần tạo ra những điều kiện nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo mục đích nhất định.

Trước tiên,với ví dụ ban đầu,ta sẽ thấy được cái ngẫu nhiên cản trở như thế nào với cái tất nhiên xét về lĩnh vực học tập? Trong số những sinh viên K3818 sẽ có những bạn đã quen biết hoặc có những anh chị là sinh viên khóa trên.Vì là các anh chị khóa trên nên cũng phải trải qua quá trình học tập cực kỳ vất vả khi học tập tại trường và do đó các anh chị biết môn nào giáo viên sẽ lới lỏng cho sinh viên để giảm bớt áp lực trong quá trình học tập.

Nhưng nếu bản thân những anh chị đó lơ là trong việc học tập,lợi dụng sự ưu ái của giáo viên mà không quan tâm tới việc học của mình thì chỉ cần câu nói như: “Môn ý dễ mà,học làm gì cho mệt,thể nào thi chẳng được qua”, hay như : “ui giời,là sinh viên mà không phải thi lại thì không phải là sinh viên”…Với những lời nói như vậy đã vô tình tác động tiêu cực vào tiềm thức của những bạn sinh viên mà có anh chị như vậy. Và rồi bạn sẽ không còn hứng thú với môn học đó,lơ là và cuối cùng sẽ dẫn đến tình trạng chán nản. Một điều tất nhiên sẽ xảy ra là kết quả học tập môn đó bị kém,phải học lại,gây lãng phí thời gian,lãng phí tiền của…

Sau khi nói đến ngẫu nhiên cản trở quá trình của tất nhiên,thì quay trở lại vấn đề,không thể phủ nhận được ngẫu nhiên cũng góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật. Ví dụ như trong quá trình học tập tại trường đại học luật,sau khi mỗi sinh viên được phân về từng lớp thì mỗi sinh viên lại được phân về thành từng nhóm.

Đây là một cách thức giảng dạy rất hay,là mô hình đào tạo được áp dụng trong hệ thống giáo dục của các nước phương Tây như Anh,Pháp,Mỹ…Làm việc theo nhóm sẽ nâng cao khả năng thuyết trình,hùng biện cho mỗi người,đặc biệt là với sinh viên trường mình. Thông qua hoạt động học nhóm này chính chúng ta sẽ chứng tỏ được khả năng lãnh đạo,sự tự tin của bản thân là tiền đề vững chắc để tiến bước xa hơn trên con đường sự nghiệp.

Tóm lại,với phương pháp luận này cung cấp cho chúng ta một vấn đề cần thiết trong cuộc sống:trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không được xem nhẹ mọi sự vật,hiện tượng dù là rất nhỏ đang diễn ra xung quanh ta. Trước khi thực hiện một công việc cần xem xét nó là điều có lợi hay có hại cho bản thân chúng ta. Việc đánh giá việc làm đó chính là cái kết quả cuối cùng mà ta sẽ nhận được.

Qua việc phân tích một ví dụ cụ thể trong cuộc sống giúp chúng ta phần nào nhận thức được rõ hơn tại sao trong phép biện chứng duy vật cần phải có cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Việc phân tích này không chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết thuần túy, mà qua đây sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về những sự vật ,hiện tượng diễn ra trong cuộc sống, và khi nhận thức được vấn đề thì chúng ta sẽ thực hiện nó theo chiều hướng tích cực, đi lên.

Mối Quan Hệ Biện Chứng Giữa Lý Luận Và Thực Tiễn, Ý Nghĩa Phương Pháp Luận Của Vấn Đề Này, Sự Vận Dụng Của Đảng Ta

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này. Sự vận dụng của Đảng ta. Đáp án Sự gắn kết giữa nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn luôn là một đòi hỏi cấp bách và là một phương thức để mang đến thành công cho hoạt động của mỗi cá nhân, của tổ chức và của một chính đảng. Nhận thức đúng và giải quyết hợp lý mối quan hệ biện chứng tác động qua lại của lý luận và thực tiễn, dùng lý luận làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, thực tiễn phải là cơ sở, động lực của nhận thức và tiêu chuẩn của chân lý … luôn là chìa khóa để để giải quyết mọi vướng mắc trên con đường đi đến mục tiêu đã định. Ngược lại, nhận thức không đúng và giải quyết không tốt mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ quan duy ý chí, tất nhiên sẽ dẫn đến những thất bại mà đối với một chính đảng, sự thất bại đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Trước hết, ta đi vào các khái niệm cơ bản: 1- Thực tiễn là gì? Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản không chỉ của lý luận nhận thức mácxít mà còn của toàn bộ triết học Mác – Lênin nói chung. * Quan điểm của triết học trước Mác: – Điđơrô (nhà triết học Pháp): hiểu chưa đầy đủ về thực tiễn, cho rằng thực tiễn là hoạt động thực nghiệm khoa học trong phòng thí nghiệm. – Phoiơbắc (nhà triết học duy vật siêu hình người Đức): thực tiễn chỉ là những hoạt động bẩn thỉu của các con buôn. – Hêghen (nhà triết học duy tâm khách quan người Đức): thực tiễn chỉ là khái niệm, tư tưởng thực tiễn chứ không phải bản thân thực tiễn với tư cách là hoạt động vật chất. * Quan điểm triết học mácxít: Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Hoạt động thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động vật chất của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất (để phân biệt với hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận), hay nói theo thuật ngữ của Mác là hoạt động vật chất “cảm tính” của con người. Hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và được tiến hành trong các quan hệ xã hội, là hoạt động mang tính năng động, sáng tạo, là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xa hội loài người. Hoạt động thực tiễn có ba dạng cơ bản, đó là: + Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên của thực tiễn, có vai trò quyết định đối với các dạng hoạt động khác của thực tiễn. Vì: nó là hoạt động nguyên thủy nhất và tồn tại một cách khách quan, thường xuyên nhất trong đời sống con người và nó tạo ra những điều kiện, của cải thiết yếu có tính quyết định đến sự sinh tồn và phát triển của con người và xã hội loài người. + Hoạt động chính trị – xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. + Hoạt động thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn, được tiến hành trong những điều kiện do con người tạo ra gần giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định các qui luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu. 2- Lý luận là gì? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử. Xét về bản chất: lý luận là một hệ thống tri thức chặt chẽ mang tính trừu tượng khái quát, đúc kết từ thực tiễn, được diễn đạt thông qua các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật … phản ánh bản chất của sự vận động, biến đổi, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, được hình thành trong mối quan hệ với thực tiễn. 3 – Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn: Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ với nhau, tác động qua lại nhau, trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định. Vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận: Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận đồng thời là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thực, lý luận. Thực tiễn là nguồn gốc cơ sở sinh ra lý luận, nến không có thực tiễn thì không có lý luận, thực tiễn cao hơn lý luận không những ở tính phổ biến mà còn ở tính hiện thực trực tiếp. Sự phản ánh vượt trước của lý luận qua nỗ lực sáng tạo của những thiên tài ở những giai đoạn lịch sử nhất định xét cho đến cùng thì cái làm nên sự vượt trước ấy cũng đã được nảy mầm từ mảnh đất thực tiễn sinh động, đều do thực tiễn gợi ý mách bảo Chỉ có thông qua thực tiễn con người mới vật chất hóa dược lý luận vào đời sống hiện thực. Lý luận không có sức mạnh tự thân mà chỉ có thông qua thực tiễn thì lý luận mới phát huy tác dụng, mới tham gia vào quá trình biến đổi hiện thực. Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với lý luận, Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn nhận thức, lý luận. Vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà còn của tính hiện thực trực tiếp”. Vai trò tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn: Lý luận có thể thúc đẩy tiến trình phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận khoa học và ngược lại có thể kìm hãm sự phát triển của thực tiễn nếu đó là lý luận phản khoa học, phản động, lạc hậu. Lý luận khoa học sẽ trở thành kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nó hướng dẫn, chỉ đạo, soi sáng cho thực tiễn, vạch ra phương pháp giúp hoạt động thực tiễn đi tới thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động và phát triển của thế giới khách quan, giúp con người xác định đúng mục tiêu để hành động có hiệu quả hơn, tránh được những sai lầm, vấp váp. Lý luận khoa học thâm nhập vào hoạt động của quần chúng tạo nên sức mạnh vật chất, điều chỉnh hoạt động thực tiễn, giúp cho hoạt động của con người trở nên tự giác, chủ động, tiết kiệm được thời gian, công sức, hạn chế những mò mẫm, tự phát. Lý luận khoa học dự kiến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng trong tương lai, từ đó chỉ ra phương hướng mới cho sự phát triển. Con người ngày càng đi sâu khám phá giới tự nhiên vô cùng vô tận bằng những phương tiện khoa học hiện đại thì càng cần có những dự báo đúng đắn. Nếu dự báo không đúng sẽ dẫn đến những sai lầm, hậu quả xấu không thể lường được trong thực tiễn. Vì thế, chức năng dự báo tương lai là chức năng quan trọng của lý luận. Lý luận cách mạng có vai trò to lớn đối với thực tiễn cách mạng. Lênin cho rằng: “Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng”. Mác thì nhấn mạnh: “Lý luận khi thâm nhập vào quần chúng thì nó biến thành lực lượng vật chất”. Vai trò của lý luận khoa học ngày càng tăng lên, đặc biệt trong giai đoạn mới của thời đại ngày nay, thời đại của cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc diễn ra gay go, phức tạp, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Ph. Ăngghen chỉ ra rằng: một dân tộc muốn đứng trên đỉnh cao khoa học thì không thể không có tư duy lý luận. Sự lạc hậu, giáo điều về lý luận dẫn đến sự khủng hoảng về lý luận của chủ nghĩa xã hội trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội nói chung, cụ thể là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trước đây. Nguyên lý thống nhất giữa lý luận và thực tiễn: Theo quan điểm mácxít, lý luận và thực tiễn không tách rời nhau mà giữa chúng có sự liên hệ, xâm nhập và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Chủ nghĩa Mác – Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý luận và thực tiễn trong qúa trình hình thành và phát triển của nó. Lý luận Mác – Lênin là sự khái quát thực tiễn CM và lịch sử xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận trên các lĩnh vực khác nhau. Sức mạnh của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn xã hội, được kiểm nghiệm, bổ sung trong thực tiễn. Chính vì vậy mà nó có vai trò cải tạo thế giới chứ không chỉ giải thích thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và triết học Mác – Lênin nói riêng đã tìm thấy ở giai cấp vô sản vũ khí vật chất của mình và giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác – Lênin vũ khí tinh thần của mình. Lênin từng nhắc nhở những người cộng sản ở các nước phải biết cụ thể hóa chủ nghĩa Mác – Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc, từng nơi. Lý luận cần phải được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Thống nhất lý luận với thực tiễn là nguyên tắc căn bản của triết học Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” hoặc “Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ”. 4- Ý nghĩa phương pháp luận: Việc quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng, giúp chúng ta tránh được bệnh kinh nghiệm cũng như bệnh giáo điều và rút ra được những quan điểm đúng đắn trong nhận thức và cuộc sống. Trước hết, cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát thực tiễn, tổ chức hoạt động thực tiễn để triển khai lý luận, phải coi trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, tránh tình trạng quan liêu, bàn giữaấy, sách vở, xa rời thực tiễn. Đồng thời cần phải phát huy vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Phát huy vai trò của lý luận yêu cầu phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, đổi mới phương pháp tư duy cho toàn Đảng, toàn dân nghĩa là chuyển từ tư duy kinh nghiệm sang tư duy lý luận, từ tư duy siêu hình, duy tâm sang tư duy biện chứng duy vật; đổi mới công tác lý luận, hướng công tác lý luận vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra, làm rõ những căn cứ khách quan của đường lối chính sách của Đảng. Nếu coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực tiễn thì sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. + Bệnh kinh nghiệm: là căn bệnh tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nhận thức và hành động chỉ dựa vào kinh nghiệm, đề cao vai trò thực tiễn, hạ thấp lý luận, không chịu học hỏi để vương lên, không coi trọng việc tổng kết thực tiễn để khái quát thành lý luận. Thể hiện ở chỗ tuyệt đối hoá kinh nghiệm, coi thường lý luận, “chỉ biết tối ngày vùi đầu vào công tác sự vụ”, ít đào sâu suy nghĩ, nhất là đối với những người trình độ văn hoá kém, ít quen đọc sách và suy nghĩ, áp dụng kinh nghiệm một cách thiếu sáng tạo. + Bệnh giáo điều: là căn bệnh tuyệt đối hóa lý luận, nhận thức và hành động chỉ dựa vào lý luận, coi lý luận là “chìa khóa vạn năng” cho tư duy và hành động, bất chấp điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Thể hiện ở chỗ: coi tri thức là chân lý tuyệt đối, là cứng nhắc, tách lý luận khỏi thực tiễn, rơi vào bệnh lý luận suông, không biết cụ thể hóa lý luận cách mạng cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng lúc, từng nơi, không biết bổ sung lý luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động và vận dụng một cách máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt động cải tạo hiện thực mà không chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể đối tượng, mang lại hiệu quả xấu cho hoạt động lý luận và thực tiễn. Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém về tư duy lý luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Để khắc phục hai căn bệnh trên cần phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, thường xuyên tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận, đồng thời phải coi trọng lý luận, nâng cao trình độ tư duy lý luận. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải học tập tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”. Từ nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giưa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phê phán sai lầm của chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều. Khi đặt vấn đề phải học tập lý luận theo Người, học lý luận không phải để thuộc lòng từng câu từng chữ, cũng không phải học lý luận để đem loà thiên hạ, để kiêu ngạo, để mặc cả với Đảng, để trở thành những người lý luận suông. Mà mục đích học tập lý luận để tự cải tạo mình, để tránh mò mẫm, để đỡ phạm sai lầm trong công tác, để hoàn thành tốt hơn các nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và nhân dân giao phó. Học tập lý luận là cốt áp dụng vào thực tế và khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những lý luận mới sinh ra từ trong thực tiễn. 5- Sự vận dụng của Đảng ta: Trước đổi mới: Do chưa nhận thức đầy đủ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, chưa gắn lý luận với thực tế điều kiện, hoàn cảnh ở nước ta nên đã chủ quan, nóng vội, bỏ qua những bước đi cần thiết. Một trong những sai lầm trong chính sách của Đảng trong thời kỳ trước đổi mới là xuất phát từ căn bệnh giáo điều, xuất phát từ sự lạc hậu, yếu kém về lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự yếu kém về lý luận làm cho chúng ta tiếp thu lý luận Chủ nghĩa Mác Lênin một cách giản đơn, phiến diện, cắt xén sơ lược, không đến nơi đến chốn, CNXH được hiểu một cách giản đơn, ấu trĩ. Trong thời kỳ này, đã có lúc ta bắt chước rập khuôn mô hình CNXH ở Liên Xô trong việc thành lập các bộ ngành của bộ máy nhà nước. Hoặc áp dụng máy móc theo học thuyết của Mác về kinh tế là phải xóa bỏ tư hữu, do đó khi áp dụng vào nước ta, Đảng đã có biểu hiện nóng vội trong việc tiến hành cải tạo XHCN nhằm xóa tất cả các thành phần kinh tế mà không thấy được vai trò quan trọng của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đảng ta cũng vấp phải những sai lầm trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước: Chủ trương tập trung cho công nghiệp hóa đất nước mà chủ lực là phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến điều kiện vật chất và lực lượng sản xuất của ta còn chưa tương xứng, với xuất phát điểm còn rất thấp từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nông nghiệp là chính, trình độ lực lượng sản xuất không cao, sản xuất thủ công là chủ yếu. Có thể nói việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là sản xuất và đầu tư, chúng ta thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực tế. Sự nhận thức giản đơn, yếu kém trong việc vận dụng xơ cứng lý luận vào trong còn thể hiện ở việc hiểu và vận dụng chưa đúng các quy luật khách quan đang tác động trong thời kỳ quá độ ở nước ta (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, các quy luật sản xuất hàng hoá, quy luật thị trường…), quá nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế độ công hữu, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Mặt khác, duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, quá tập trung quyền lực nhà nước, dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, bao cấp trong phân phối … làm cản trở sự sáng tạo, tạo nên sự bảo thủ trì trệ của đời sống xã hội. Cũng trong thời kỳ này chúng ta đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những giá trị, những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng xoá bỏ sản xuất hàng hoá, xoá bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việc xem kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa đối lập với CNXH là do căn cứ một cách cứng nhắc vào luận điểm của Mác và Ăngghen rằng chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ buôn bán; cùng với việc xã hội nắm lấy những tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hóa cũng bị loại trừ và do đó sự thống trị của hàng hóa đối với những người sản xuất cũng bị loại trừ. Thực ra những luận điểm của CácMác và Ăngghen chỉ là những dự đoán về giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa cộng sản chứ không phải nói về giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản : giai đoạn chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội, Mác đã nhấn mạnh : đó là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, vì vậy về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh thần nó vẫn còn mang những dấu vết của xã hội cũ, nói cách khác, hệ thống kinh tế – xã hội của CNXH còn mang nhiều dấu ấn của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Như vậy, làm sao xóa ngay được cái “dấu vết” đặc trưng của chủ nghĩa tư bản là kinh tế hàng hóa cũng như không thể xóa bỏ chế độ tư hữu ngay lập tức mà chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần. Hậu quả của những sai lầm xuất phát sự nhận thức yếu kém về lý luận và xa rời thực tiễn đã làm cho đường lối chính sách của Đảng ta đề ra không phù hợp với thực tiễn nên đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội : Nnhiều vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn tổng quát, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế Việt Nam vận động thiếu năng động và kém hiệu quả. Những mất cân đối và nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong đời sống kinh tế – xã hội bị tích nén lại Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm gia tăng các căng thẳng trong đời sống xã hội. Lòng tin của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước giảm sút. Trên thực tế, đến cuối những năm 70, đất nước đã thực sự lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội. Vấn đề cấp bách đặt ra cho Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam lúc này là tìm kiếm cách thức phát triển mới có khả năng đáp ứng các mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó quan trọng nhất là phải tháo gỡ các ràng buộc về cơ chế và thể chế để giải phóng các nguồn lực phát triển của đất nước. Đại hội IV chưa xác định được những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Cụ thể là trong 5 năm 1976 – 1980, đảng ta chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cụ thể là đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và sắp xếp lại nền kinh tế, chỉ thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn, không tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Đại hội V đã cụ thể hóa một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế, xã hội nhưng trong chỉ đạo thực hiện đã không quán triệt đầy đủ các quy luật khách quan, chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội chủ quan và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế. Cụ thể là đã chưa thật sự coi trọng phát triển nông nghiệp, coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Về xây dựng cơ bản, vẫn thiên về xây dựng các công trình quy mô lớn nhưng chưa thật cấp bách, kém hiệu quả dẫn đến sự phân tán về tiền vốn và vật tư. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc ra sức xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng, nhất quán những quan điểm, chủ trương chính sách chỉ đạo công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã có những biều hiện nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu