Ý Nghĩa Thêm Trạng Ngữ Cho Câu / Top 9 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Thanhlongicc.edu.vn

Cách Thêm Trạng Ngữ Cho Câu

Trạng ngữ là gì?

Trạng ngữ là thành phần phụ trong câu, được thêm vào câu để xác định thời gian, nơi chốn, nguyên nhân, cách thức, phương tiện, mục đích diễn ra sự việc nêu trong câu. Nó có thể đứng ở đầu câu, cuối câu hoặc giữa câu.

Trạng ngữ có thể được cấu tạo từ một cụm từ hoặc một từ. Về chức năng ngữ pháp trạng ngữ là thành phần phụ trong câu.

Có 3 loại trạng ngữ chính gồm:

Chỉ thời gian, nơi chốn.

Chỉ nguyên nhân, mục đích.

Trạng ngữ chỉ phương tiện, cách thức.

Dấu hiệu nhận biết trạng ngữ

Giữa trạng ngữ với chủ ngữ, vị ngữ thường có một quãng nghỉ khi nói và dấu phẩy khi viết.

Ví dụ: Trong 2 cặp câu sau, câu nào có trạng ngữ, câu nào không? Tại sao?

Cặp 1: a) Tôi đi chơi hôm nay. b) Hôm nay, tôi đi chơi.

Cặp 2: a) lớp 9A học bài hai giờ. b) Hai giờ, lớp 9A học bài.

Câu b của hai cặp trên có trạng ngữ vì “hôm nay” và ” hai giờ” được thêm vào để bổ sung ý nghĩa cho câu văn.

Câu a của hai cặp trên không có trạng ngữ vì câu văn liền mạch, không có quảng nghỉ và dấu phẩy.

Công dụng của việc thêm trạng ngữ cho câu

Trạng ngữ xác định hoàn cảnh, điều kiện diễn ra sự việc nêu trong câu, góp phần làm cho nội dung câu đầy đủ, chính xác.

Các trạng ngữ còn có tác dụng liên kết các câu, các đoạn, góp phần làm cho đoạn văn, bài văn mạch lạc.

Trong văn nghị luận: Trạng ngữ giúp sắp xếp các luận cứ, luận điểm trong văn nghị luận theo trình tự không gian, thời gian hoặc quan hệ nguyên nhân – kết quả, khiến câu văn, đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau, làm cho văn bản rõ ràng, mạch lạc.

Nó là một trong những cách mở rộng câu, làm nội dung câu phong phú, đầy đủ và chính xác hơn.

Tác dụng việc tách trạng ngữ thành câu riêng

Nó giúp nhấn mạnh ý nghĩa của trạng ngữ đứng sau, hướng sự chú ý của người đọc vào trạng ngữ đó.

Ví du: Người Việt Nam ngày nay có lý do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó. ( Đặng Thai Mai)

Trong ví dụ trên trạng ngữ là câu” để tự hào với tiếng nói của mình” đây là trạng ngữ chỉ mục đích và nó đứng ở cuối câu.

Ta xét câu in đậm trong đoạn trích trên, nếu xét về mối quan hệ ý nghĩa với chủ ngữ, vị ngữ của câu đứng trước thì câu im đậm là trạng ngữ thứ hai của đoạn văn.

Ta có thể gộp 2 câu trên thành 1 câu duy nhất là ” Người Việt Nam ngày nay có lý do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó”

Tác giả đã tách nó thành câu riêng với mục đích là nhấn mạnh sự tin tưởng vào tương lai phát triển của tiếng Việt.

Nó giúp chuyển ý từ đoạn văn bản này sang đoạn văn bản khác với mục đích là giúp liên kết ý nghĩa đoạn văn.

Ví dụ: ” Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò, hò khi đánh cá trên sông ngòi, biển cả, hò khi cấy cày, gặt hái, trồng cây, chăn tằm […]

Đêm. Thành phố lên đèn như sao xa […] ( Trích tác phẩm Ca Huế trên sông Hương)

Trạng ngữ “Đêm” trong ví dụ trên được tác giả tách thành câu riêng nhằm chuyển ý từ đoạn 1 (giới thiệu các điệu hò của xứ Huế ) sang đoạn 2 ( giới thiệu thời gian, không gian nghe ca Huế trên sông Hương) của văn bản.

Giúp thể hiện cảm xúc, tâm trạng của con người, thiên nhiên, động vật chi tiết và sống động nhất.

Ví dụ: ” Bốn người lính đều cúi đầu, tóc xõa gối. Trong lúc tiếng đờn vẫn khắc khoải vẳng lên những chữ đờn ly biệt, bồn chồn ” (Anh Đức)

Trạng ngữ là phần in đậm trong ví dụ, nó có tác dụng thể hiện cảm xúc, tâm trạng của bốn người lính trong tình huống khi nghe tiếng đàn.

Ghi nhớ: Người ta thường tách trạng ngữ ở cuối câu thành câu riêng. Trong một số trường hợp trạng ngữ đứng đầu câu cũng có thể tách thành câu riêng. Và trạng ngữ đứng giữa câu thì không thể tách thành câu riêng.

Bài tập ví dụ

a ) Mùa xuân của tôi, mùa xuân của Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh.

b ) Mùa xuân, cây gạo gọi đến biết bao là chim ríu rít.

c ) Tự nhiên như thế: Ai cũng chuộng mùa xuân.

d ) Mùa xuân! Mỗi khi họa mi tung ra những tiếng hót vang lừng, mỗi vật như có sự đổi thay kỳ diệu.

Câu b là câu có thành phần trạng ngữ ” Mùa xuân”.

Câu d cụm từ ” mùa xuân” là dạng câu đặc biệt.

Soạn Bài: Thêm Trạng Ngữ Cho Câu (Tiếp Theo)

Hướng dẫn soạn văn, soạn bài, học tốt bài

1. Công dụng của trạng ngữ

a) + Xác định thành phần trạng ngữ trong các câu sau:

Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.

– Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ.

– Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa.

– Trên giàn hoa lí, vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa.

– Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.

+ Thử lược bỏ thành phần trạng ngữ trong các câu trên và cho biết việc này có ảnh hưởng như thế nào đến ý nghĩa của câu.

Trạng ngữ không phải là thành phần bắt buộc phải có trong câu nhưng nó là thành phần đóng vai trò quan trọng trong việc biểu đạt. Chúng ta không thể hiểu được rõ ràng nội dung của các câu trên bởi vì chúng đã bị lược bỏ trạng ngữ, không hiểu được sự việc được diễn ra trong điều kiện, hoàn cảnh nào. Có khi, vì vắng mặt trạng ngữ nên ý nghĩa của câu trở nên thiếu chính xác, khó xác định, ví dụ: lá bàng đỏ như màu đồng hun. Nếu không gắn hình ảnh này với trạng ngữ chỉ thời gian Về mùa đông, thì sắc đồng hun của lá bàng có vẻ là bất hợp lí bởi vì khi đó câu Lá bàng đỏ như màu đồng hun như là nhận định chung về màu sắc của lá bàng, mà sự thực thì lá bàng chỉ có thể có màu đồng hun vào mùa đông thôi.­

Khi làm một bài văn nghị luận, em phải sắp xếp luận cứ theo những trình tự nhất định: sắp xếp theo trình tự thời gian, không gian, trình tự quan hệ nguyên nhân – kết quả, điều kiện – kết quả,… Đối với việc sắp xếp này, trạng ngữ có một vai trò quan trọng trong việc nối kết các câu, các đoạn, góp phần làm cho liên kết của văn bản chặt chẽ, mạch lạc.

2. Tách trạng ngữ thành câu riêng

(1) Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình. (2) Và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó.

– Câu (1) có trạng ngữ không?

Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình.

– Có thể gộp câu (1) và câu (2) thành một câu có hai trạng ngữ:

Người Việt Nam ngày nay có lí do đầy đủ và vững chắc để tự hào với tiếng nói của mình và để tin tưởng hơn nữa vào tương lai của nó.

Câu (2) có vốn là trạng ngữ của câu (1), người viết đã tách nó ra thành một câu riêng để nhấn mạnh ý.

Ở loại bài thứ nhất, người ta thấy trong nhà thơ Hồ Chí Minh có nhà báo Nguyễn ái Quốc hết sức sắc sảo trong bút pháp kí sự, phóng sự và nghệ thuật châm biếm.

Ở loại bài thứ hai, ta lại thấy ở nhà thơ cách mạng sự tiếp nối truyền thống thi ca lâu đời của phương Đông, của dân tộc, từ Lí Bạch, Đỗ Phủ,… đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,…

b) Đã bao lần bạn vấp ngã mà không hề nhớ. Lần đầu tiên chập chững bước đi, bạn đã bị ngã. Lần đầu tiên tập bơi, bạn uống nước và suýt chết đuối phải không? Lần đầu tiên chơi bóng bàn, bạn có đánh trúng bóng không? Không sao đâu vì… […]. Lúc còn học phổ thông, Lu-i Pa-xtơ chỉ là một học sinh trung bình. Về môn hoá, ông đứng hạng 15 trong số 22 học sinh của lớp.

Kết hợp những bài này lại ,(1) ta được chiêm ngưỡng một bức chân dung tinh thần tự hoạ rất rõ nét và sinh động của nhà thơ.

,(2) người ta thấy trong nhà thơ Hồ Chí Minh có nhà báo Nguyễn ái Quốc hết sức sắc sảo trong bút pháp kí sự, phóng sự và nghệ thuật châm biếm.

,(3) ta lại thấy ở nhà thơ cách mạng sự tiếp nối truyền thống thi ca lâu đời của phương Đông, của dân tộc, từ Lí Bạch, Đỗ Phủ,… đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến,…

[…] Đã bao lần bạn vấp ngã mà không hề nhớ. Lần đầu tiên chập chững bước đi,(4) bạn đã bị ngã. Lần đầu tiên tập bơi,(5)bạn uống nước và suýt chết đuối phải không? Lần đầu tiên chơi bóng bàn,(6)bạn có đánh trúng bóng không? Không sao đâu vì… . Lúc còn học phổ thông,(7) Lu-i Pa-xtơ chỉ là một học sinh trung bình. Về môn hoá,(8) ông đứng hạng 15 trong số 22 học sinh của lớp.

+ Bổ sung ý nghĩa cho câu: về thời gian – (4), (5), (6), (7); về không gian, nơi chốn – (2), (3); về cách thức – (1); về phương diện – (8);

+ Liên kết: Ở cả hai đoạn này, các trạng ngữ đều được liên kết với nhau theo kiểu lập luận diễn dịch giúp cho bài văn trở nên rõ ràng, dễ hiểu.

– Xác định câu được tách từ thành phần trạng ngữ;

+ Thử gộp câu được tách từ trạng ngữ với câu có nòng cốt thành một câu:

+ Đọc và so sánh với các câu khi được tách để thấy được tác dụng nhấn mạnh thông tin của việc tách trạng ngữ thành câu riêng.

3. Hãy viết một đoạn văn từ 5 đến 10 câu về sự giàu đẹp của tiếng Việt, trong đó có sử dụng trạng ngữ để bổ sung ý nghĩa và để liên kết các câu.

Trạng Ngữ Là Gì? Vai Trò Và Cách Phân Loại Trạng Ngữ Trong Câu

Số lượt đọc bài viết: 18.550

Trạng ngữ là gì? Thuật ngữ “trạng ngữ” đã trở nên rất quen thuộc và là một trong những khái niệm mà bất cứ ai trong chúng ta cũng được làm quen từ cấp tiểu học. Tuy nhiên, khái niệm “trạng ngữ là gì” đôi khi vẫn bị nhầm lẫn và khiến nhiều người tranh cãi. Chính vì vậy, để tìm hiểu cụ thể và chính xác, hãy theo dõi bài viết dưới dây của DINHNGHIA.VN

Khái niệm trạng ngữ là gì?

Trạng ngữ già gì? Thuật ngữ trạng ngữ từ lâu đã trở nên rất quen thuộc với chúng ta ngay từ thời tiểu học. Tuy hiên khái niệm trạng ngữ là gì đôi khi lại gây không ít tranh luận.

Nhìn chung, ta có thể hiểu trạng ngữ là gì như sau: Trạng ngữ là thành phần nằm trong câu. Nó có nhiệm vụ xác định thời gian, nguyên nhân, nơi chốn, mục đích… của sự việc, hành động được nhắc đến trong câu.

Nhiệm vụ của trạng ngữ là gì?

Trạng ngữ sẽ giúp bạn trả lời các câu hỏi như:

Trong câu, trạng ngữ là “trên cây” có tác dụng chỉ nơi chốn. Trạng ngữ này trả lời cho câu hỏi “Ở đâu?”.

Có những loại trạng ngữ nào?

Tùy vào nhiệm vụ trong câu mà trạng ngữ được chia thành nhiều loại khác nhau. Các loại trạng ngữ bao gồm:

Tráng ngũ chỉ nơi chốn là một trong các loại thường được sử dụng nhất của trạng ngữ. Nó là thành phần phụ trong câu có tác dụng chỉ rõ địa điểm, nơi chốn xảy ra sự việc, hành động đang xảy ra trong câu.

Trạng ngữ nơi chốn có nhiệm vụ trả lời cho câu hỏi “ở đâu?”.

Ví dụ về trạng ngữ nơi chốn: Trong bếp, mẹ đang nấu ăn.

Trong ví dụ trên, trạng ngữ là gì? Trạng ngữ nơi chốn là “trong bếp”. Nó có tác dụng trả lời cho câu hỏi “Ở đâu?” và cụ thể là chỉ vị trí mẹ đang nấu ăn.

Trạng ngữ chỉ thời gian xuất hiện trong câu với vai trò là thành phần phụ. Nó có tác dụng chỉ về thời gian của sự việc , hành động đang diễn ra trong câu.

Trạng ngữ chỉ thời gian có nhiệm vụ trả lời cho các câu hỏi về thời gian, giờ giấc như: Bao giờ? Mấy giờ? Khi nào?…

Ví dụ: Tối qua, Lan học bài chăm chỉ.

Trong ví dụ trên, trạng ngữ là gì? Trạng ngữ chỉ thời gian là “Tối qua”. Nó giúp người đọc trả lời cho câu hỏi “Lúc nào?” hay cụ thể là Lan học bài chăm chỉ vào lúc nào?

Tương tự như các loại khác, trạng ngữ chỉ nguyên nhân được sử dụng như thành phần phụ của câu. Thông thường, trạng ngữ loại này có độ dài hơn so với các loại khác do tính chất giải thích, nêu ra lý do tại sao sự việc trong câu lại diễn ra như vậy.

Trạng ngữ chỉ nguyên nhân có nhiệm vụ trả lời cho các câu hỏi như: Tại sao? Vì sao? Do đâu?

Trong ví dụ trên, trạng ngữ là gì? Trạng ngữ chỉ nguyên nhân là “Vì trời rét”. Nó có tác dụng trả lời cho câu hỏi “Vì sao” hay cụ thể là giải thích lý do tại sao tôi đi làm muộn.

Đây là loại trạng ngữ ngược với trạng ngữ chỉ nguyên nhân. Nó đảm nhận vai trò của thành phần phụ trong câu hoàn chỉnh, chỉ mục đích của sự việc, hành động được nhắc đến trong câu.

Trạng ngữ chỉ mục đích có nhiệm vụ trả lời cho các câu hỏi như: Để làm gì? Vì cái gì? Mục tiêu là gì?…

Ví dụ: Để được mẹ khen, Nam cố gắng học hành chăm chỉ.

Trong ví dụ trên, đâu là trạng ngữ? Trạng ngữ chỉ mục đích là “Để được mẹ khen”. Nó có nhiệm vụ trả lời cho câu hỏi “Để làm gì? hay cụ thể hơn lại vì mục đích gì mà Nam học hành chăm chỉ.

Trạng ngữ chỉ phương tiện là thành phần phụ nằm trong câu. Nó được sử dụng với mục đích làm rõ các phương tiện, cách thức di chuyển của sự việc, hành động, con người… được nhắc đến trong câu.

Thông thường, trạng ngữ chỉ phương tiện thường đi kèm từ “bằng ” hoặc “với”. Nó có nhiệm vụ trả lời cho các câu hỏi như: Với cái gì? Bằng cái gì?

Khái niệm về trạng ngữ cũng như các loại trạng ngữ tưởng chừng như đơn giản nhưng lại gây không ít nhầm lẫn và tranh cãi. Hi vọng thông qua bài viết của chúng tôi bạn đã có một cái nhìn tổng quan và chi tiết về kiến thức quan trọng trạng ngữ là gì

Ví dụ cụ thể: Bằng giọng nói ấm áp, mẹ luôn vỗ về, an ủi tôi.

Trong ví dụ trên, trạng ngữ có ý nghĩa gì? Trạng ngữ chỉ phương tiện là “Bằng giọng nói ấm áp”. Nó trả lời cho câu hỏi “bằng cái gì” hay chi tiết hơn là mẹ vỗ về, an ủi tôi bằng cái gì?

Tu khoa lien quan:

Please follow and like us:

Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Câu Tục Ngữ: “Thương Người Như Thể Thương Thân”

Ý nghĩa câu tục ngữ: “Thương người như thể thương thân”

Tình cảm yêu thương giúp đỡ lẫn nhau là một đặc điểm nổi bật, là truyền thống trong quan niệm sống của ông cha ta. Tình cảm ấy ngày càng được phát huy và thấm đậm vào máu thịt của mỗi người dân. Cùng với những câu tục ngữ, ca dao như ” Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng” căn dặn, ” Lá lành đùm lá rách“… ông bà ta cũng căn dặn thật cụ thể qua câu tục ngữ “Thương người như thể thương thân“. Đây là một lời khuyên chí tình chí nghĩa nhằm nhắc nhở con cháu phải biết yêu thương giúp đỡ người khác như yêu thương chính bản thân mình. Ngày nay câu tục ngữ được nhân dân ta thực hiện như thế nào?

Như một lời nói tự nhiên chân thành ngắn gọn, mà lại chứa chan bao điều giáo huấn, câu tục ngữ được tách thành hai vế, một bên là người đồng loại, một bên là bản thân bởi cách so sánh “như thể”. Như vậy, lời dạy trên muốn nhấn mạnh: Nếu ta thương thân như thế nào thì ta phải yêu thương bản thân mình; bởi lẽ bản thân là quan trọng, là cái quý giá nhất, cái mà luôn luôn được mọi người lo lắng, chăm sóc và vun vén. Chỉ một vết trầy xước nhỏ, một chứng đau nhẹ cũng khiến cho ta phải quan tâm, lo sợ… đó là ta thương thân ta, và khi nếu như người khác không may gặp khó khăn, hoạn nạn thì ta nên giúp đỡ họ như thương yêu chính bản thân mình.

Thật vậy, là người sống trong xã hội không ai sống lẻ loi, đơn độc mà tập hợp thành đoàn thể, cộng đồng. Trong gia đình ta mối quan hệ anh em, những người cùng huyết thống, cùng có những kỉ niệm vui buồn bên nhau. Họ chẳng khác nào như chân với tay trong cùng một cơ thể. Do đó, khi họ gặp hoạn nạn khó khăn ta làm sao có thể quay lưng làm ngơ cho được, bởi ” máu chảy ruột mềm “.

Anh em như thể tay chânRách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.

Rộng hơn là bè bạn, bà con hàng xóm, những người đã cùng ta ” tối lửa tắt đèn” có nhau. Tuy không cùng máu mủ nhưng họ lại là người có tình có nghĩa sâu nặng với ta. Những lúc ” trái gió trở trời“, nhưng khi ” cùng đường bí lối“, họ đến với ta bằng những tấm lòng chân thành để “chia bùi sẻ ngọt”. Tình nghĩa ấy thật sâu đậm nào khác gì anh em một nhà. Vì vậy khi họ không may rơi vào hoàn cảnh khó khăn lẽ nào ta ngoảnh mặt thờ ơ cho đành, lúc này thái độ “nhường cơm sẻ áo”, ” chị ngã em nâng” , là một việc làm mà ta phải thực hiện tốt.

Ngay đến cộng đồng xã hội mà ta đang sống, những người dù ở miền ngược hay miền xuôi, dù nơi miền núi hay đồng bằng cũng đều là anh em, bởi lẽ họ với ta cùng một dân tộc có chung một mẹ Âu Cơ… Chính mối quan hệ gắn bó này tạo nên tình cảm tương thân tương ái giữa con người với con người trong xã hội. Tình cảm ấy đã bao đời nay trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.

Trải qua những năm tháng kháng chiến gian khổ, gay go cả nước đều chung lòng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để đến thắng lợi vẻ vang. Và cũng đã biết bao lần toàn dân ta đã hưởng ứng tích cực lời kêu gọi ” Miếng khi đói bằng gói khi no ” của đồng bào khắp cả nước ta để chung góp từ tiền bạc đến thuốc men vật dụng hầu chia sẻ nỗi đau với các nạn nhân của thiên tai lũ lụt. Những việc làm ấy đã thể hiện rất rõ tấm lòng “Thương người như thể thương thân” mà ông cha ta đã truyền dạy. Tình cảm cao đẹp ấy là một đạo lí, là một nét đẹp của con người, là nền tảng để xây dựng một xã hội văn minh, hạnh phúc.

Thế nhưng, trong xã hội hiện nay vẫn còn không ít người chỉ quan tâm đến bản thân mà không nghĩ đến người khác. Họ thờ ơ bàng quan trước nỗi đau của đồng bào, đồng loại. Hạng người này thật đáng phê phán.Ta cũng nên hiểu rằng yêu thương người khác như yêu thương chính bản thân mình là một việc làm tốt đáng để cho mọi người noi theo. Ngày nay, câu tục ngữ không còn mang ý nghĩa hẹp của cá nhân mà nó mang nội dung rộng lớn hơn, nó trở thành tình cảm chung, nếp sống chung của toàn xã hội. Và tình cảm nhân đạo ấy được phát triển lan rộng qua mối quan hệ, qua mỗi cộng đồng nhân loại.

Câu tục ngữ “Thương người như thể thương thân” là một bài học sâu sắc về đạo lí làm người. Yêu thương người khác như yêu thương chính bản thân mình mãi mãi nhắc nhở ta về lòng nhân ái, về tình người mà mỗi người chúng ta cần phải thực hiện tốt. Phát huy truyền thống tốt đẹp ấy của cha ông là ta vừa thể hiện nhân cách làm người vừa góp phần xây dựng một đất nước văn minh tiến bộ.