Ý Nghĩa Từ Mặc Định / Top 10 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 6/2023 # Top View | Thanhlongicc.edu.vn

Sống, Và Những Điều Chúng Ta (Mặc Định Mình) Có

1.  Mỗi sáng thức dậy, có bao người tự hỏi mình rằng:

Chúng ta làm được gì khi chúng ta còn trẻ và khỏe?

Chúng ta có nói chuyện với bố mẹ trên bàn ăn không, hay ăn vội và chỉ dán mắt vào TV?

Chúng ta làm gì khi đến lớp – học hay tụ tập bàn chuyện thần tượng với bạn bè?

Trước khi suy nghĩ về vấn đề trên, mình muốn giới thiệu đến các bạn một từ tiếng Anh.

2. Khi còn nhỏ, mình có lần hỏi ông anh: “Anh ơi, từ ‘take something for granted‘ dịch sang tiếng Việt là gì ạ?” Là một người chăm đọc sách tiếng Anh, anh ấy biết rõ từ ấy có nghĩa là gì, nhưng mãi hồi lâu vẫn không thể tìm ra một khái niệm gãy gọn tương đương trong tiếng Việt để giải thích cho mình. 7 năm trôi qua rồi, mình vẫn chưa biết từ ấy dịch ra tiếng Việt như thế nào.

Nếu dịch một cách dông dài thì từ ấy nói về chuyện chúng ta sở hữu một cái gì đó và mặc nhiên điều đó thuộc về mình. Và thường, khi chúng ta mặc định mình có cái gì, chúng ta sẽ ít khi trân trọng điều ấy. (Để viết gọn hơn, mình sẽ tạm dịch từ này bằng cụm từ “mặc định sở hữu”).

Chẳng hạn như, chúng ta mặc định là mình sở hữu tình thương của bố mẹ. Chúng ta rất dễ nghĩ bố mẹ chăm sóc chúng ta là chuyện bình thường, vì đó là nghĩa vụ cơ bản của người làm bố mẹ. Khi khỏe mạnh, chúng ta mặc định sở hữu sức khỏe – vì chúng ta nghĩ rằng con người ai bình thường mà chẳng không khỏe mạnh? Nếu may mắn lớn lên trong một gia đình ăn no mặc ấm, chúng ta mặc định sở hữu quyền đi học, quyền được xem TV trong thời gian rảnh,…

3. Nhưng, sống mà mặc định mọi thứ là sở hữu của mình là một lối sống cực kì nguy hiểm. Nói thế là vì bạn thực sự không biết bạn sẽ mất đi những điều ấy khi nào.

Cuối tuần vừa rồi, Trần Lập mất. Vài hôm trước đó, mình mới vừa nghe câu chuyện một đứa bạn phải trải qua một căn bệnh hiểm nghèo. Rồi mình cũng đã được nghe câu chuyện của những người bạn khác hoặc đột nhiên bị mất thị lực, hoặc có bố mẹ ly hôn, hoặc vì hoàn cảnh gia đình khó khăn mà phải từ bỏ giấc mơ của mình.

Tất cả những câu chuyện này đều là những yếu tố ngẫu nhiên – sinh, lão, bệnh, tử, giàu sang và nghèo khó, hạnh phúc hay tuyệt vọng – và có lẽ dù mình có cố gắng giải thích bằng cách nào đi nữa cũng không thể nào lý giải nổi tất cả những bất công trên đời. Có lẽ không ai sẽ trả lời được vì sao một người luôn sống hết mình như Trần Lập lại phải mất, trong khi nhiều người trẻ khác đang sống phí hoài thời gian. Rồi mình tự hỏi, vì sao một đứa luôn sống vui vẻ, tốt với mọi người như bạn của mình lại phải chịu cảnh gia đình tan vỡ. Lý do tại sao chúng ta gọi những điều này bất công, là vì không có một logic nào có thể giải thích được nó.

4. Không chỉ những điều cơ bản (và quan trọng) như sức khỏe hay tình cảm gia đình, chúng ta thường không trân trọng rất nhiều giá trị mà mình có trong cuộc sống, và điều này diễn ra dưới muôn hình vạn trạng.

Sáng nay mình vừa bước ra khỏi khoa, thì một thầy – giáo sư Elhanan Helpman, một trong những người phát minh ra lý thuyết thương mại mới, mở đường cho những nghiên cứu thương mại quốc tế hiện đại – bước lại để hỏi thăm. Nhận ra rằng mình không có ô, thầy dùng cái ô nhỏ của thầy để che cho cả hai khi thầy trò vừa đi vừa nói chuyện. Mình nói chuyện với thầy 10 phút về những dự định nghiên cứu mùa hè của mình, và thầy góp ý. Sau khi thầy nói chuyện xong và đi xuống trạm tàu điện ngầm, mình mới nhận ra rằng mình chưa nói chuyện với thầy từ rất lâu.

Lúc học ở Princeton cũng thế. Một trong những nguyên nhân khiến mình chọn Princeton là khi mình đến thăm trường, mình đã đi lạc và vô tình đi ngang khán phòng của trường khi đang có một dàn nhạc giao hưởng biểu diễn. Mình lúc đó đứng ngoài nghe rất chăm chú, và nghĩ thầm “Nếu mình đến đây thì sẽ được nghe những buổi hòa nhạc này thường xuyên”. Thế mà, khi vào trường rồi, mình chỉ đi nghe 1 buổi hòa nhạc mỗi năm.

Rồi trước đây khi học ở Việt Nam và UWC, cơ hội tiếp xúc những diễn giả nổi tiếng khá ít ỏi, nên mình cũng ít khi đi nghe. Khi đến Princeton rồi, chưa bao giờ mình ở một môi trường mà đông giới trí thức, và đông nguyên thủ các nước đến thăm như thế. Đến năm 2 ở Princeton, mình đã bị bão hòa và không còn hứng thú đi dự các buổi nói chuyện của tổng thống các nước hay các diễn giả nổi tiếng nữa.

Đấy, cái nguy hại của mặc định sở hữu là thế. Ngay cái giây phút mình nhận ra rằng mình có tất cả những điều ấy, và có thể tiếp cận những quyền lợi này bất cứ lúc nào, thì đó cũng là lúc mình dừng trân trọng và sử dụng những quyền lợi mình được trao.

5. Dạo gần đây, mình ngộ ra rằng việc sống làm sao cho tốt và việc mặc định sở hữu là hai điều khá dính liền với nhau. Trở lại 3 câu hỏi ở đầu bài, nếu bạn chưa bao giờ nghĩ về những điều ấy, hãy nhớ rằng sẽ có những đứa bạn của bạn thèm được mạnh khỏe như một người bình thường, thèm có một gia đình như một người bình thường, và thèm được đi học như một người bình thường.

Cuộc đời mỗi người là của riêng, và mình tin rằng bản thân không nhất thiết phải so sánh với ai, hay phải có suy nghĩ mình sống cho ai. Tuy nhiên, mình tin rằng, chỉ khi nào chúng ta quý những điều chúng ta đang có, chúng ta mới có thể sống mãnh liệt hơn, tận dụng tốt những điều xung quanh hơn, và giữ được nhiều mối quan hệ hơn.

Châu T. Vũ

Cambridge, 23/3/2016

Share this:

Twitter

Facebook

Like this:

Số lượt thích

Đang tải…

Ý Nghĩa Lớn Từ Khóa Học “Thẩm Định Thông Tin” Cho Sinh Viên Uef

Khép lại khóa học News Literacy & Responsible Readers (Unitour), gần 40 sinh viên trường Trường Đại học Kinh tế – Tài chính thành phố Hồ Chí Minh (UEF) đã được trao chứng nhận hoàn thành xuất sắc khóa học. Với thời gian 2 tuần học tập trong đầu tháng 8, các bạn sinh viên UEF đã thu về vốn kỹ năng và kiến thức bổ ích cho việc học và cả đời sống.

TS. Đỗ Hữu Nguyên Lộc – Viện trưởng Viện quốc tế UEF tặng quà lưu niệm cho ông Matthew Ference – Trưởng phòng Văn hoá thông tin, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại chúng tôi

Bà Huỳnh Tịnh Hoài Nhân – Trưởng dự án News Literacy & Responsible Readers chia sẻ tại buổi lễ tổng kết khóa học

Ông Matthew Ference trao giấy chứng nhận cho các bạn sinh viên hoàn thành khóa học

Trước buổi tổng kết, các bạn sinh viên còn có dịp trao đổi về chuyên đề “Tin giả trong lĩnh vực kinh tế – tài chính” cùng Nhà báo Minh Thiên (Tạp chí Forbes).

Các nhóm sinh viên chia sẻ kiến thức được đào sâu qua bài tập thuyết trình sáng tạo

Thầy Phan Văn Tú – Trưởng Bộ môn Báo chí, Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn chúng tôi đưa ra những góp ý cho bài thuyết trình của các sinh viên

Kết thúc khóa học, rất nhiều sinh viên đã có chia sẻ về sự đổi thay, cảm hứng đến từ lớp học, về hành trình bắt đầu trở thành người đọc có trách nhiệm hơn của người trẻ UEF.

Khóa học “Thẩm định thông tin” đã trở thành kỷ niệm đẹp với các sinh viên UEF sau 2 tuần đồng hành

News Literacy & Responsible Readers (Unitour) là dự án trang bị Kỹ năng “Thẩm định thông tin” dành cho sinh viên các trường đại học tại chúng tôi trong năm 2023. Mục tiêu dự án là giúp các bạn trẻ tăng cường kỹ năng phân tích, chọn lọc thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng, trở thành độc giả có trách nhiệm hơn, góp phần xây dựng cộng đồng News Literacy từ môi trường giáo dục đại học.

Tin và ảnh: Dự án News Literacy & Responsible Readers

Cụm Từ Cố Định: Phân Loại

Mặc dù có nhiều điểm giống nhau về nguyên tắc, nhưng cách xây dựng, tạo lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau không hoàn toàn như nhau. Vì thế, cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau có thể được phân loại khác nhau. Chẳng hạn, N.M. Shanskij (1985) đã phân loại các cụm từ cố định trong tiếng Nga hiện đại như sau:

Phân loại theo mức độ tính chất về ngữ nghĩa: tách ra 5 loại;

Phân loại theo đặc điểm các từ trong thành phần của cụm từ cố định: tác ra 4 loại;

Phân loại theo mô hình cấu trúc: tách ra 16 loại;

Phân loại theo nguồn gốc: tách ra 6 loại.

Việc nghiên cứu cụm từ cố định của tiếng Việt tuy chưa thật sâu sắc và toàn diện nhưng đã có không ít kết quả công bố trong một số giáo trình giảng dạy trong nhà trường đại học và tạp chí chuyên ngành.

Nếu tạm thời chấp nhận tên gọi mà chưa xác định ngay nội dung khái niệm của chúng, thì có thể tóm tắt một trong những bức tranh phân loại cụm từ cố định tiếng Việt như sau:

1. Thành ngữ 1.1. Định nghĩa

Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý nghĩa. Nghĩa của chúng có tính hình tượng hoặc/và gợi cảm.

Ví dụ: Ba cọc ba đồng, Chó cắn áo rách, Nhà ngói cây mít, Bán bò tậu ễnh ương, Méo miệng đòi ăn xôi vò, Ông mất của kia bà chìa của nọ, Đủng đỉnh như chĩnh trôi sông,…

Các cụm từ cố định (thành ngữ) như thế đều thoả mãn định nghĩa nêu trên. Chúng là những thành ngữ điển hình.

1.2. Phân loại

Có nhiều cách phân loại thành ngữ. Trước hết, có thể dựa vào cơ chế cấu tạo (cả nội dung lẫn hình thức) để chia thành ngữ tiếng Việt ra hai loại: thành ngữ so sánh và thành ngữ miêu tả ẩn dụ.

1.2.1. Thành ngữ so sánh

Loại này bao gồm những thành ngữ có cấu trúc là một cấu trúc so sánh. Ví dụ: Lạnh như tiền, Rách như tổ đỉa, Cưới không bằng lại mặt,…

Mô hình tổng quát của thành ngữ so sánh giống như cấu trúc so sánh thông thường khác:

A ss B: Ở đây A là vế được so sánh, B là vế đưa ra để so sánh, còn ss là từ so sánh: như, bằng, tựa, hệt,…

Tuy vậy, sự hiện diện của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt khá đa dạng, không phải lúc nào ba thành phần trong cấu trúc cũng đầy đủ. Chúng có thể có các kiểu:

A.ss.B: Đây là dạng đầy đủ của thành ngữ so sánh. Ví dụ: Đắt như tôm tươi, Nhẹ tựa lông hồng, Lạnh như tiền, Dai như đỉa đói, Đủng đỉnh như chĩnh trôi sông, Lừ đừ như ông từ vào đền,…

(A).ss.B: Ở kiểu này, thành phần A của thành ngữ không nhất thiết phải có mặt. Nó thể xuất hiện hoặc không, nhưng người ta vẫn lĩnh hội ý nghĩa của thành ngữ ở dạng toàn vẹn. Ví dụ: (Rẻ) như bèo, (Chắc) như đinh đóng cột, (Vui) như mở cờ trong bụng, (To) như bồ tuột cạp, (Khinh) như rác, (Khinh) như mẻ, (Chậm) như rùa,…

ss.B: Trường hợp này, thành phần A không phải của thành ngữ. Khi đi vào hoạt động trong câu nói, thành ngữ kiểu này sẽ được nối thêm với A một cách tuỳ nghi, nhưng nhất thiết phải có. A là của câu nói và nằm ngoài thành ngữ. Ví dụ:

Có thể kể ra một số thành ngữ kiểu này như: Như tằm ăn rỗi, Như vịt nghe sấm, Như con chó ba tiền, Như gà mắc tóc, Như đỉa phải vôi, Như ngậm hột thị,…

Đối với thành ngữ so sánh tiếng Việt, có thể nêu một vài nhận xét về cấu trúc của chúng như sau:

Vế A (vế được so sánh) không phải bao giờ cũng buộc phải hiện diện trên cấu trúc hình thức, nhưng nội dung của nó thì vẫn luôn luôn là cái được “nhận ra”. A thường là những từ ngữ biểu thị thuộc tính, đặc trưng hoặc trạng thái hành động,… nào đó. Rất ít khi chúng ta gặp những khả năng khác.

Từ so sánh trong thành ngữ so sánh tiếng Việt phổ biến là từ như; còn những từ so sánh khác, chẳng hạn như tựa, tựa như, như thể, bằng, tày,… (Gương tày liếp, Tội tày đình, Cưới không bằng lại mặt,…) chỉ xuất hiện hết sức ít ỏi.

Vế B (vế để so sánh) luôn luôn hiện diện, một mặt để thuyết minh, làm rõ cho A, mặt khác, nhiều khi nó lại chỉ bộ lộ ý nghĩa của mình trong khi kết hợp với A, thong qua A. Ví dụ: Ý nghĩa “lạnh” của tiền chỉ bộ lộ trong Lạnh như tiền mà thôi. Các thành ngữ Nợ như chúa Chổm, Rách như tổ đỉa, Say như điếu đổ, Say khướt cò bợ,… cũng tương tự như vậy.

Mặt khác, các sự vật, hiện tượng, trạng thái,… được nêu ở B phản ánh khá rõ nét những dấu ấn về đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc Việt. Đối chiếu với thành ngữ so sánh của các ngôn ngữ khác, ta dễ thấy sắc thái dân tộc của mỗi ngôn ngữ được thể hiện một phần ở đó.

Vế B có cấu trúc không thuần nhất:

B có thể là một từ. Ví dụ: Lạnh như tiền, Rách như tổ đỉa, Nợ như chúa Chổm, Đắng như bồ hòn, Rẻ như bèo, Khinh như mẻ,…

B có thể là một kết cấu chủ-vị (một mệnh đề). Ví dụ: Như đỉa phải vôi, Như chó nhai giẻ rách, Lừ đừ như ông từ vào đền, Như thầy bói xem voi, Như xầm sờ vợ,…

Ngoài những điều nói trên, khi đối chiếu các thành ngữ so sánh với cấu trúc so sánh thông thường của tiếng Việt, ta thấy:

Các cấu trúc so sánh thông thường có thể có so sánh bậc ngang hoặc so sánh bậc hơn. Ví dụ: Anh yêu em như yêu đất nước (so sánh bậc ngang), Dung biết mình đẹp hơn Mai (so sánh bậc hơn),…

Từ so sánh và các phương tiện so sánh khác (chỗ ngừng, các cặp từ phiếm định hô ứng,…) được sử dụng trong các cấu trúc so sánh thông thường, rất đa dạng: như, bằng, tựa, hệt, giống, chẳng khác gì, y như là, hơn, hơn là,…

Một vế A trong cấu trúc so sánh thông thường có thể kết hợp với một hoặc hai, thậm chí một chuỗi nhiều hơn các vế B qua sự nối kết với từ so sánh. Ví dụ:

Kết hợp với một B: Cổ tay em trắng như ngà /Đôi mắt em liếc như là dao cau.

Kết hợp với một chuỗi B: Những chị cào cào (…) khuôn mặt trái xoan như e thẹn, như làm dáng, như ngượng ngùng.

Cấu trúc so sánh thông thường rất đa dạng, trong khi đó thành ngữ so sánh ít biến dạng hơn và nếu có thì cũng biến dạng một cách giản dị như đã nêu trên. Lí do chính là ở chỗ thành ngữ so sánh là cụm từ cố định, chúng phải chặt chẽ và bền vững về mặt cấu trúc và ý nghĩa.

1.2.2. Thành ngữ miêu tả ẩn dụ

Thành ngữ miêu tả ẩn dụ là thành ngữ được xây dựng trên cơ sở miêu tả một sự kiện, một hiện tượng bằng cụm từ, nhưng biểu hiện ý nghĩa một cách ẩn dụ.

Xét về bản chất, ẩn dụ cũng là so sánh, nhưng đây là so sánh ngầm, từ so sánh không hề hiện diện. Cấu trúc bề mặt của thành ngữ loại này không phản ánh cái nghĩa đích thực của chúng. Cấu trúc đó, có chăng chỉ là cơ sở để nhận ra một nghĩa “sơ khởi”, “cấp một” nào đó, rồi trên nền tảng của “nghĩa cấp một” này người ta mới rút ra, nhận ra và hiểu lấy ý nghĩa đích thức của thành ngữ.

Ví dụ: Xét thành ngữ ” Ngã vào võng đào“. Cấu trúc của thành ngữ này cho thấy:

– (Có người nào đó) bị ngã – tức là gặp nạn, không may;

– Ngã, nhưng rơi vào võng đào (một loại võng được coi là sang trọng, tốt và quý) tức là vẫn được đỡ bằng cái võng, êm, quý, sang, không mấy ai và không mấy lúc được ngồi, nằm ở đó.

Từ các hiểu cái nghĩa cơ sở của cấu trúc bề mặt nayf, người ta rút ra và nhận lấy ý nghĩa thực của thành ngữ như sau: Gặp tình huống tưởng như không may nhưng thực ra lại là rất may (và thích gặp tình huống đó hơn là không gặp bởi vì có lợi hơn là không gặp).

Căn cứ vào nội dung của thành ngữ miêu tả ẩn dụ kết hợp cùng với cấu trúc của chúng, có thể phân loại nhỏ hơn như sau:

Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu một sự kiện. Trong các thành ngữ này, chỉ có một sự kiện, một hiện tượng nào đó được nêu. Chính vì vậy, cũng chỉ một hình ảnh được xây dựng và phản ánh. Ví dụ: Ngã vào võng đào, Nuôi ong tay áo, Nước đổ đầu vịt, Chó có váy lĩnh, Hàng thịt nguýt hàng cá, Vải thưa che mắt thánh, Múa rìu qua mắt thợ,…

Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương đồng. Ở đây, trong mỗi thành ngữ sẽ có hai sự kiện, hai hiện tượng được nêu, được phản ánh. Chúng tương đồng hoặc tương hợp với nhau (hiểu một cách tương đối). Ví dụ: Ba đầu sáu tay, Nói có sách mách có chứng, Ăn trên ngồi trốc, Mẹ tròn con vuông, Hòn đất ném đi hòn chì ném lại,…

Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương phản. Ngược lại với loại trên, mỗi thành ngữ loại này cũng nêu ra hai sự kiện, hai hiện tượng tương phản nhau hoặc chí ít cũng không tương hợp nhau. Ví dụ: Các thành ngữ Một vốn bốn lời, Méo miệng đòi ăn xôi vò, Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm, Bán bò tậu ễnh ương, Xấu máu đòi ăn của độc,…

Bên cạnh việc phân loại thành ngữ tiếng Việt theo cơ chế cấu tạo và cấu trúc, còn có thể phân loại chúng theo số tiếng. Một nét nổi bật đáng chú ý ở đây là các thành ngữ có số tiếng chẵn (bốn tiếng, sáu tiếng, tám tiếng) chiếm ưu thế áp đảo về số lượng (xấp xỉ 85%). Điều này có cơ sở của nó. Người Việt rất ưu lối nói cân đối nhịp nhàng và hài hoà về âm điệu. Ngay ở bậc từ ta cũng thấy rằng hiện nay các từ song tiết (hai tiếng) chiếm tỉ lệ hơn hẳn các loại khác.

Và đến lượt mình, tỉ lệ 85% thành ngữ đó gây nên một áp lực về số lượng, khiến cho những cụm từ như: Trăng tủi hoa sầu, Tan cửa nát nhà, Tháng đợi năm chờ, Ăn gió nằm mưa, Lót đó luồn đây, Gìn vàng giữ ngọc,… nhanh chóng mang dáng dấp của các thành ngữ và rất hay được sử dụng.

2. Quán ngữ

Quán ngữ là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ (discourse) thuộc phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là để đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh hoặc để liên kết trong diễn từ.

Ví dụ: Của đáng tội, (Nói) bỏ ngoài tai, Nói tóm lại, Kết cục là, Nói cách khác,…

Thật ra, tính thành ngữ và tính ổn định cấu trúc của quán ngữ không được như thành ngữ. Dạng vẻ của cụm từ tự do còn in đậm trong các cụm từ cố định thuộc loại này. Chỉ có điều, do nội dung biểu thị của chúng được người ta thường xuyên nhắc đến cho nên hình thức và cấu trúc của chúng cũng tự nhiên ổn định dần lại và rồi người ta quen dùng như một đơn vị có sẵn.

Có thể phân loại các quán ngữ của tiếng Việt dựa vào phạm vi và tính chất phong cách của chúng, như sau:

Những quán ngữ hay dùng trong phong cách hội thoại, khẩu ngữ: Của đáng tội, Khí vô phép, Khổ một nỗi là, (Nói) bỏ ngoài tai, Nói dại đổ đi, Còn mồ ma, Nó chết (một) cái là, Nói (…) bỏ quá cho, Cắn rơm cắn cỏ, Chẳng nước non gì, Đùng một cái, Chẳng ra chó gì, Nói trộm bóng vía,…

Khó lòng có thể phân tích, phân loại quán ngữ theo cơ chế cấu tạo hoặc cấu trúc nội tại của chúng. Tuy nhiên, sự tồn tại của những đơn vị gọi là quán ngữ không thể bỏ qua được, và chức năng của chúng có thể chứng minh được không khó khăn gì. Tình trạng đa tạp và đầy biến động của các quán ngữ cũng như những đặc trưng bản tính của chúng, khiến cho ta nếu nghiêm ngặt thì phải nghĩ rằng: chúng đứng ở vị trí trung gian giữa cụm từ tự do với cụm từ cố định chứ không hoàn toàn nghiêng hẳn về một bên nào, mặc dù ở từng quán ngữ cụ thể, có thể nặng về bên này mà nhẹ về bên kia một chút hay ngược lại.

3. Ngữ cố định định danh

3.1. Tên gọi này chúng ta tạm dùng (vì nó chưa thật chặt về nội dung) để chỉ những đơn vị vốn ổn định về cấu trúc và ý nghĩa hơn các quán ngữ rất nhiều, nhưng lại chưa có được ý nghĩa mang tính hình tượng như thành ngữ.

Chúng thực sự là các cụm từ cố định, nhưng được tạo dựng theo cách gần như cách tạo những từ ghép mà người ta vẫn hay gọi là từ ghép chính phụ. Chẳng hạn: Quân sư quạt mo, Anh hùng rơm, Kỉ luật sắt, Tuần trăng mật, Con gái rượu, Giọng ông kễnh, Tóc rễ tre, Mắt ốc nhồi, Má bánh đúc, Mũi dọc dừa,…

3.2. Thực chất đó là những cụm từ cố định, định danh, gọi tên sự vật. Trong mỗi cụm từ như vậy thường có một thành tố chính và một vài thành tố phụ miêu tả sự vật được nêu ở thành tố chính. Nó miêu tả chủ yếu bằng con đường so sánh nhưng không hề có từ so sánh. Thành tố chính thường bao giờ cũng là thành tố gọi tên.

Con đường tạo dựng những cụm từ như: Lông mày lá liễu, Lông mày sâu róm, Mắt lá răm, Mắt ốc nhồi, Mắt lợn luộc, Mắt bồ câu, Mắt lươn,… gần như đồng hình với con đường tạo dựng các từ ghép: đen xì, đen sẫm, đen trũi, đen láy, đen nhánh, đen xỉn,…

Chính bởi vậy, ở đây có hai xu hướng chuyển di ngược chiều nhau và thâm nhập vào nhau. Một số thành ngữ so sánh bị khử từ so sánh dễ được nhập vào số những cụm từ kiểu này: Ngang cành bứa, Cay xé, Dẻo kẹo, Đen thui, Trẻ măng,… Ngược lại, một số cụm từ vốn được tạo ra theo kiểu này, nhưng vì tính thành ngữ, tính hình tượng đạt tới mức độ gần tương đương với các thành ngữ thực sự, lai rất có thể dễ được nhận vào hàng ngũ của các thành ngữ: Ví dụ: Tuần trăng mật, Kỉ luật sắt, Con gái rượu, Sách gối đầu giường, Hòn đá thử vàng, Bạn nối khố, Thẳng ruột ngựa, Toạc móng héo,…

3.3. Các ngữ cố định định danh thường tập trung với mật độ khá đậm ở khu vực tên gọi các bộ phận cơ thể con người như: Tóc rễ tre, Lông mày lá liễu, Lông mày sâu róm, Mắt lá răm, Mắt bồ câu, Mắt ốc nhồi, Râu ngạnh trê, Má bánh đúc, Mặt trái xoan, Mũi dọc dừa, Mồm cá ngão, Răng cải mả, Chân vòng kiềng, Chân chữ bát, Mặt lưỡi cày, Bụng cóc, Mình trắm,…

Một số ít hơn là tên gọi của các sự vật khác hoặc tên gọi của một trạng thái, thuộc tính. Chẳng hạn: Giọng ông kễnh, Đá tai mèo, Kỉ luật sắt, Gót sắt, Con gái rượu, Bạn áo ngắn, Sách gối đầu giường, Hòn đá thử vàng, Bạn nối khố, Cười cầu tài, Tấm lòng vàng, Bạn vàng, Toạc móng heo, Thẳng ruột ngựa,…

3.4. Cũng như tình trạng của quán ngữ, các cụm từ là ngữ cố định định danh có những biểu hiện không đồng đều nhau ở điểm này hoặc điểm khác. Rõ ràng là, nhìn chung, chúng ổn định cả cấu trúc lẫn ngữ nghĩa. Nhưng tính thành ngữ thì lại kém, thậm chí kém xa hoặc rất xa so với những thành ngữ chân chính. Tuy nhiên, chúng cũng không phải là từ ghép, nếu xét về bậc được cấu tạo. Chỉ có điều, việc cơ chế cấu tạo của chúng có phần giống với các từ ghép chính phục thì chúng ta phải thừa nhận.

Ở những mức độ khác nhau, chúng hiện diện như là đơn vị đứng giữa cụm từ cố định-thành ngữ với từ ghép.

4. Những hiện tượng trung gian

Mặc dầu vậy, chúng vẫn là những cụm từ có tính cố định. Chỉ có điều tính cố định đó cao hay thấp, nhiều hay ít mà thôi.

Có thể coi các cụm từ cố định tiếng Việt có vùng tâm và vùng biên, có đơn vị điển hình và đơn vị không điển hình. Thành ngữ chắc chắn thuộc vùng trung tâm.

Thế nhưng, ngay ở khu vực thành ngữ cũng có những đơn vị trung gian được cấu tạo theo lối thành ngữ nhưng tính tự do, kém ổn định vẫn còn rõ nét.

Có những đơn vị đã đạt được tính thành ngữ khá cao nhưng tính bền chắc, tính chỉnh thể về cấu trúc lại còn kém ổn định. Nghĩa là số thành tố cấu tạo nên chúng có thể còn tăng hay giảm được một cách tuỳ nghi.

Rất nhiều cụm từ cấu tạo theo kiểu thành ngữ so sánh, là như thế: Nhức như búa bổ, Đắt như vàng, Gầy như gọng vó, Buồn như cha chết, Hôi như chuột chù, Bẩn như hủi, Lôi thôi như ổ chó,…

Ngược lại, có những đơn vị khác, tính ổ định về cấu trúc khá bảo đảm, tức là không thể thêm bớt các thành tố cấu tạo một cách tuỳ nghi, nhưng tính thành ngữ, tính nhất thể về nghĩa vẫn chưa cao. Nghĩa của cả cụm từ vẫn là nghĩa được hiểu nhờ từng thành tố cộng lại. Ví dụ: Bàn mưu tính kế, Đi ra đi vào, Buôn gian bán lận, Suy đi tính lại, Nghĩ tới nghĩ lui, Gìn vàng giữ ngọc, Trăng tủi hoa sầu, Chân mây cuối trời, Than thân trách phận, Ăn thô nói tục, Yêu trẻ kính già,…

Những đơn vị như thế, đã, đang và chắc sẽ còn được tạo lập trong tiếng Việt. Đó là những sản phẩm được tạo ra trong đời sống hoạt động ngôn ngữ. Trả lời cho câu hỏi “Chúng có trở thành thành ngữ hay không?” thật là khó. Hẳn rằng còn phải qua thời gian, qua thực tế sử dụng, qua rất nhiều tác động của các nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ nữa,… mới có thể kết luận được.

Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 153-165.

Xử Lý Khi Hàng Xóm Ospf Không Được Quảng Bá Các Tuyến Đường Mặc Định

+ Đôi khi, OSPF sử dụng một tuyến đường mặc định cho các điểm đến chưa được biết đến OSPF. Thay vì học tất cả các tuyến đường bên ngoài vào OSPF, chỉ cần một tuyến đường mặc định là cần thiết sẽ được sử dụng cho tất cả các điểm đến bên ngoài không rõ. Những nguyên nhân phổ biến nhất có thể cho một bộ định tuyến OSPF không để quảng bá các tuyến đường mặc định như sau:

* Không cấu hình default-information.

* Các tuyến đường mặc định không có trong bảng định tuyến của hàng xóm.

* Một người hàng xóm đang cố gắng bắt nguồn từ một mặc định vào một stub area.

* NSSA ABR / ASBR không có nguồn gốc các Type 7 mặc định.

1. Không cấu hình default-information

+ OSPF không bắt nguồn từ các tuyến đường mặc định, trừ khi OSPF được cấu hình như vậy. Lệnh này bắt nguồn từ các tuyến đường mặc định trên router mà nó được cấu hình.

Ví dụ: Cấu hình:

R1#

router ospf 1

redistribute rip subnets

network 131.108.1.0 0.0.0.255 area 0

network 131.108.2.0 0.0.0.255 area 0

Trong ví dụ này, mặc dù R1 đang nhận được một tuyến đường mặc định từ RIP, nó không được phân phối vào các cơ sở dữ liệu OSPF. Để giải quyết vấn đề này, cấu hình default-information phải được cấu hình trên R1:

R1#

router ospf 1

redistribute rip subnets

network 131.108.1.0 0.0.0.255 area 0

network 131.108.2.0 0.0.0.255 area 0

default-information originate

2. Các tuyến đường mặc định không có trong bảng định tuyến của người hàng xóm

Ví dụ: R1#show ip route 0.0.0.0

% Network not in table

R1#

R1#show ip ospf database external 0.0.0.0

OSPF Router with ID (131.108.2.1) (Process ID 1)

R1#

Cho thấy R1 là không tạo ra các tuyến đường mặc định trong cơ sở dữ liệu OSPF bởi vì không có tuyến đường mặc định có trong bảng định tuyến

R1#

router ospf 1

redistribute rip subnets

network 131.108.1.0 0.0.0.255 area 0

network 131.108.2.0 0.0.0.255 area 0

default-information originate

Cho biết cấu hình trên R1 để xác nhận rằng lệnh default-information cũng được cấu hình để loại trừ các nguyên nhân được đề cập trong phần trước Để đảm bảo rằng các tuyến đường mặc định có trong bảng định tuyến. Ta cần cấu hình cho nó có thể được bắt nguồn từ bất kỳ giao thức định tuyến khác, bao gồm cả thông tin tuyến đường tĩnh hoặc mặc định.

R1#

router ospf 1

redistribute rip subnets

network 131.108.1.0 0.0.0.255 area 0

network 131.108.2.0 0.0.0.255 area 0

default-information originate always

3. Người hàng xóm đang cố gắng đi vào một stub area bắt nguồn từ một tuyến đường mặc định

Ta có mô hình:

Khi một khu vực được xác định là stub, LSA bên ngoài không được cho phép vào trong nó. Điều này bao gồm các LSA Type 5 default bên ngoài. ABR tự động tạo ra summary LSA Type 3 default trong stub area, tuy nhiên, nếu default-information originate được cấu hình trên ABR hoặc non-ABR, nó không phải quảng bá các tuyến đường mặc định bởi vì lệnh này tạo ra LSA Type 5, không được phép vào một khu vực stub area.

router ospf 1

network 131.108.1.0 0.0.0.255 area 2

network 131.108.2.0 0.0.0.255 area 2

default-information originate

area 2 stub

R1#show ip ospf database external 0.0.0.0

OSPF Router with ID (131.108.2.1) (Process ID 1)

R1#

Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách thay đổi khu vực stub area thành normal area và sau đó bắt nguồn từ một tuyến đường mặc định. Cấu hình như sau

R1#

router ospf 1

network 131.108.1.0 0.0.0.255 area 2

network 131.108.2.0 0.0.0.255 area 2

default-information originate

no area 2 stub

Nguyễn Minh Hải – VnPro