Bạn đang xem bài viết Ý Nghĩa Nhan Đề Chiếc Thuyền Ngoài Xa được cập nhật mới nhất trên website Thanhlongicc.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là nhan đề một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu, trước in trong tập Bến quê (1985), sau được dùng đặt tên cho cả tập truyện ngắn gồm 15 truyện do nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1987. Thiên truyện được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học lớp 12 phổ thông, cả ban khoa học xã hội – nhân văn lẫn ban cơ bản.
Đặt vấn đề tìm hiểu ý nghĩa nhan đề một truyện ngắn hoàn toàn không phải là một cái gì mới mẻ bởi lẽ sự hoàn chỉnh về nội dung được thể hiện ngay trong ý nghĩa mà đầu đề văn bản chỉ ra, đặc biệt là với các văn bản nghệ thuật vốn thường mang những nhan đề hàm ẩn. Vậy nhan đề ấy – Chiếc thuyền ngoài xa- có ý nghĩa như thế nào?
Ý nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa
Những nhan đề loại này đòi hỏi người tiếp nhận phải suy nghĩ, liên tưởng mới có thể hiểu được ý nghĩa của chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người cho rằng nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu có vinh dự là người ” thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” ( Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học sau 1975. Trong nhà trường, hai tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đã được đưa bộ sách cải cách trước đây ( Bức tranh ở cấp trung học cơ sở và Mảnh trăng cuối rừng ở cấp trung học phổ thông) và lần thay sách này, giáo viên và học sinh lại được tiếp cận hai tác phẩm khác- Bến quê ở cấp trung học cơ sở và Chiếc thuyền ngoài xa ở trung học phổ thông.
Hầu như các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong chương trình trung học phổ thông đều mang những nhan đề vừa cụ thể lại vừa có ý nghĩa biểu tượng. Nếu như Mảnh trăng cuối rừng vừa là một hình ảnh thực được miêu tả trong truyện và trở đi trở lại nhiều lần, thành hình ảnh nổi bật và bao trùm toàn bộ khung cảnh của câu chuyện, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho nữ nhân vật chính- Nguyệt thì ” Chiếc thuyền ngoài xa” cũng có phần giống như thế
1- Chiếc thuyền ngoài xa là chiếc thuyền thực hay chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật?
Phần vào chuyện kể trọn vẹn sự cần thiết phải có bức ảnh. Nguyên là người trưởng phòng của nhân vật ” tôi” ( tên là Phùng – nhân vật người kể chuyện) “là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến”, anh ta đã đề xuất yêu cầu ” Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Suốt năm tháng ròng làm việc khá thông đồng bén giọt, tổ nhiếp ảnh nghệ thuật đã mang về không biết cơ man nào là ảnh nhưng cũng chỉ có 11 bức được lọt vào cặp mắt xanh của viên trưởng phòng ” sâu sắc nước đời”. Một bức ảnh thiếu hụt oái oăm kia được trưởng phòng tin cẩn giao cho ” tôi” phải săn tìm cho được. Mà là tấm ảnh chụp có ” sương biển” giữa mùa tháng bảy – dường như thường ” chỉ có bão táp với biển động”. Thật là một vụ gieo trồng trái thời vụ vì “tôi” quá biết ” Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba cơ!”.
Nhưng rồi ” khi nên trời cũng chiều người”, ” tôi” đã trở lại vùng biển chiến trường xưa, cách Hà Nội sáu trăm cây số” và vác máy nằm “phục kích” ở chính cái nơi mà ” dường như trong suốt dải bờ biển khắp cả nước, chỉ ở đây vào giữa tháng bảy là còn sương mù”. Đây cũng còn là quê của một đồng đội cũ của ” tôi”, giờ đang là Chánh án toàn án huyện. Thật là gồm đủ thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Và ” tôi” đã bỏ qua nhiều cảnh có ‘ không khí vui nhộn hơi thô lỗ và thật hùng tráng” để chớp lấy cái khoảnh khắc ” đắt” trời cho”. Đó là cảnh ” trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn và trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ…”. Nhà nghệ sĩ dạt dào một cảm hứng nghệ thuật, trải qua một khoảnh khắc yên-sĩ -phi -lí thuần tuyệt diệu: ” toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tòan bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? (…). Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.”. Và tuyệt tác đã ra đời trong sự hưng phấn nghệ thuật – ” cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Rất cần chú ý thành phần phụ chú ” do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” trong lời kể chuyện. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh chiếc thuyền giữa biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời
Như thế, xét riêng về công vụ, nhiệm vụ của “tôi” lúc này đã hoàn thành. “Tôi” đã có cảnh thuyền và biển trong sương đúng như đặt hàng của trưởng phòng, mặc dù giữa mùa tháng bảy! Và ‘ tôi” đã có thể ung dung ” nhảy lên tàu hoả trở về”. Nếu khéo liên hệ một tí, ta dễ thấy nếu như ” tôi” về ngay lúc đó khác nào cô Nguyệt ( trong Mảnh trăng cuối rừng) xuống xe ở cầu Đá Xanh.
Phần đầu truyện như thế đủ cho người đọc biết xuất xứ của bức ảnh nghệ thuật đặc sắc trên cuốn lịch năm mới kia ra đời thế nào. Và nếu nghĩ sâu xa hơn thì cũng cần bấy nhiêu ấy cũng đủ cho bộ môn lí luận nghệ thuật khái quát về công phu lao động của nghệ sĩ.
Phần kết truyện cho biết người trưởng phòng rất hài lòng với bức ảnh và bức ảnh không chỉ có tuổi thọ ngang với một cuốn lịch năm mà “mãi mãi về sau, tấm ảnh chụp vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật”. Mở và kết truyện như vậy cho thấy, chiếc thuyền trong ” chiếc thuyền ngoài xa” là chiếc thuyền vừa có thực trong đời, vừa là chiếc thuyền trong bức ảnh nghệ thuật và nó cũng chính là một chi tiết nghệ thuật đắt, không dễ trong đời cầm máy ” tôi” đã có được may mắn thứ hai.
2- Tại sao lại là “chiếc thuyền ngoài xa”?
Theo dòng kể của ‘ tôi” rõ ràng chiếc thuyền được chụp trong một cự li tương đối gần – ” một chiếc thuyền lưới vó…đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”- nhà nghệ sĩ nhìn rõ cả “những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó”. Người thưởng thức bức ảnh thông thường chắc không ai không cảm nhận chiếc thuyền đang được chụp trong một cự li gần như thế. Thế nhưng vì sao tác giả lại đặt nhan đề truyện là ” chiếc thuyền ngoài xa”?
Trở lại luận điểm ban đầu về đầu đề văn bản: Nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản. Nếu như nhan đề chỉ đơn thuần phản ánh các đối tượng thì hẳn chiếc thuyền trong ảnh không phải là ngoài xa! Phải chăng nhan đề đó phản ánh cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.
Thật vậy, theo yêu cầu của trưởng phòng, bức ảnh phải săn tìm lần này “Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật” nhưng bức ảnh chụp được lại có ‘ vài bóng người lớn lẫn trẻ con”. Như không sao, dù có người thì người cũng chỉ ” ngồi im phăng phắc như tượng”!
Điều đáng nói là bức ảnh như thế đã ghi nhận được cái gì? Quả là một bức ảnh đẹp được chụp từ một cự li khá gần nhưng cái cách tiếp cận ” thực tế”, tiếp cận ” nguyên mẫu” như thế là cách tiếp cận từ xa vì nhà nghệ sĩ chỉ thu được cái hình hài bên ngoài, cái thơ mộng bên ngoài của cảnh và người. Bởi vì ngay sau khi nhà nghệ sĩ ” săn tìm” được cái đẹp trong cuộc đời để sáng tạo ra cái đẹp nghệ thuật kia, thì anh ta đã phải chứng kiến một cảnh đời cay cực, ngang trái mà không một người bình thường nào có thể ngoảnh mặt làm ngơ, nói chi đến nghệ sĩ vốn được coi là những con người đa cảm, đa mang!
Là nghệ sĩ và đã từng là một người lính, chứng kiến cảnh thằng con – Phác- vì thương mẹ mà đánh lại cha, khi thì bằng chính chiếc thắt lưng của lính nguỵ mà người cha của nó dùng để đánh mẹ nó, khi thì định dùng cả “ám khí” là một con dao găm lận ‘ trong cạp quần đùi”, ” tôi” đã không khoanh tay ngồi nhìn vì ” bất luận trong hoàn cảnh nào, tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo chio hắn đánh”. Và hậu quả là ‘ tôi” đã bị thương vì người chồng kia chống trả quyết liệt để tự vệ. Vậy cái cảnh thơ mộng đẹp đẽ mà ” tôi” thu được vào ống kính Pratica và cái cái cảnh đời ngang trái mà trong tư cách cựu chiến binh ” tôi” đã chứng kiến và tham dự cái nào cận nhân tình hơn? Do đó ảnh chụp chiếc thuyền thơ mộng kia chẳng phải là kết quả của lối tiếp cận hiện thực từ xa ư? Chiếc thuyền ngoài xa được chụp trong cự li gần là với ý nghĩa như vậy đó!
Chưa hết, do dưỡng thương và nể bạn nên ” tôi” nán lại thêm mấy hôm và chính lần này ” tôi” mới vỡ ra mọi lẽ. Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu – người đồng đội cũ của ” tôi”, giờ là Chánh án toàn án huyện- và người phụ nữ khốn khổ kia, ‘ tôi mới vỡ ra nhiều lẽ. Thì ra nếu chiếc thuyền chụp được là ” từ xa” thì cái cảnh ” tôi” chứng kiến cũng chỉ là bề nổi của cuộc đời gia đình nhà chài nọ. Vì sao người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những trận “đòn chồng” và cũng không chịu li dị, hiểu theo nghĩa nào đó là không chịu ” giải phóng” mình. Cái lí do chị đưa ra đã đưa hai người cựu chiến binh tốt bụng – một là một nghệ sĩ, một được mệnh danh là một Bao công- đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:
-” Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”
– ” Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão ách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu. giá mà lão uống rượu …thì tôi còn đỡ khổ…Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”
– ” Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông …Cũng có khi biển động sóng gió chứ?”.
– ‘ Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó- vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ”.
Cái vòng luẩn quẩn của những kiếp người cần lao quả thật đầy bất ngờ đối với ” tôi”, vốn đã trải qua mấy năm chiến đấu tại mảnh đất này, đã giải phóng mảnh đất này và hiện đang là nhà báo từng dong ruổi nhiều nơi! Và ” tôi” cũng nhận ra rằng vì sao ông lão ( cha người phụ nữ) làm nghề sơn tràng ” ở tận trên miền rừng A So” và thằng cháú ngoại lại hay xuất hiện ở miệt biển này và tại sao trong buổi sáng chia tay ” tôi” ông lão luôn “đặt hai con mắt đầy vẻ lo lắng ra ngoài mặt phá, nơi có chiếc thuyền”. Vậy, với tất cả những điều ấy, “chiếc thuyền nghệ thuật” của “tôi” nói được cái gì cận nhân tình chưa hay cũng chỉ là ” chiếc thuyền ngoài xa”? Nhan đề ấy phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.
Tóm lại, qua thiên truyện và cách đặt tên nhan đề, ta thấy nhân vật ” tôi” vẫn chưa hoàn toàn thoả mãn với những gì ống kính của mình đã thu được. Đằng sau bức ảnh chiếc thuyền thơ mộng ấy còn là những cuộc đời, những con người lầm lụi, khốn khổ đến quẫn trí và giải toả cái quẫn trí ấy bằng những giải pháp hết sức kì quặc. Bức ảnh “thuyền và biển” kia đã nói được gì đâu. Và đó là cách để nhà văn Nguyễn Minh Châu bộc lộ thiên hướng muốn nắm bắt hiện thực ở bề sâu ẩn kín chứa đầy những nghịch lí, mâu thuẫn của đời sống hậu chiến tranh và đó cũng là đặc điểm nổi bật mới mẻ của phong cách Nguyễn Minh Châu, người tiên phong tinh tường và tài ba trên hành trình đổi mới văn học nước nhà. Có thể hiểu ” Con thuyền ngoài xa” là những suy nghĩ da diết về chân lí nghệ thuật và đời sống. Chính khát vọng muốn tìm đến cái đẹp, cái hài hoà, muốn làm cho con người hạnh phúc nhiều khi đã đưa người ta đến chỗ giản đơn hoá không nhận ra cái thực tế khắc nghiệt thì suy cho cùng cũng chỉ là một kiểu ” lướt nhẹ trên bề mặt cuộc sống” chứ đâu đã là thứ nghệ thuật ” là tiếng đau khổ…thoát ra từ những kiếp lầm than” ( Nam Cao- Trăng sáng).
Từ đó, có thể phát hiện ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa: Khi con thuyền là đối tượng của nghệ thuật thì có thể được chiếm lĩnh từ xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thực cuộc đời cần phải được chiếm lĩnh ở cự li gần. Đừng vì nghệ thuật thuần tuý mà bỏ quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước cuộc đời, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người. Với ý nghĩa ấy, phần nào gợi ra những liên tưởng tương đồng với truyện ” Trăng sáng” của nhà văn Nam Cao.
Ý Nghĩa Nhan Đề Những Ngôi Sao Xa Xôi Lớp 9
Ý nghĩa nhan đề Những ngôi sao xa xôi 1. Tác giả tác phẩm
Lê Minh Khuê tác giả có thời gian tham gia lực lượng thanh niên xung phong trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước, tác phẩm của bà đều viết về giai đoạn chiến tranh này. Khi đất nước thống nhất đề tài của bà có sự thay đổi sang con người và xã hội giai đoạn đất nước đổi mới phát triển.
Truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi được tác giả viết vào năm 1972, khi cuộc chiến cứu nước của nhân dân Miền Nam đang trong giai đoạn ác liệt, căm go nhất. Đây là một trong những truyện ngắn thành công nhất của bà trong thời gian này.
2. Ý nghĩa nhan đềNhan đề những ngôi sao xa xôi gợi nhớ về những ngôi sao mà Phương Định đã từng nhớ lại, đó là khoảng thời gian yên bình mà cô được sống cùng gia đình mình. Tấm lòng của cô gái trẻ luôn luôn hướng về gia đình, quê hương.
Nhan đề này còn muốn nói lên 3 cô thanh niên xung phong là những ngôi sao trên bầu trời rộng lớn, họ tỏa sáng những vẻ đẹp riêng lấp lánh, diệu kì. Họ là những ngôi sao kì diệu mà ai cũng phải cảm phục khi làm nhiệm vụ trên tuyến đường Trường Sơn.
Nhan đề của truyện còn cho thấy vẻ đẹp trong tâm hồn của những con người thanh niên trẻ, ca ngợi phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam trong thời kì chiến tranh để bảo vệ Tổ quốc.
Vừa rồi là một số giải thích ý nghĩa nhan đề Những ngôi sao xa xôi của tác giả. Hi vọng thông tin trên bổ ích cho các em.
Tóm tắt truyện những ngôi sao xa xôi
Cảm nhận về nhân vật Phương Định
Lớp 9 –
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Vợ Nhặt Của Kim Lân
Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân Bài làm: Kim Lân vốn nổi lên là một trong ba nhà văn có cách viết độc đáo và dễ dàng đi sâu phản ánh rõ nét bản chất bên trong của tác phẩm. Đó không chỉ là hình ảnh của một ngòi bút nhân đạo mà còn một tấm lòng người nghệ sĩ luôn gắn bó gắn kết với cuộc sống người nông dân. Kim Lân đã viết lên một “vợ nhặt” và qua đó đã kể cho ta nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Nhan đề đã thâu tóm được giá trị cốt lõi và nội dung tư tưởng của toàn bộ tác phẩm.
Ta luôn biết rằng, trong cuộc sống của ta từ trước hay từ thời đại hiện nay. Vợ – vốn được xem là một người vô cùng cao quý và thiêng liêng. Chính họ là người luôn được xem trọng và được coi như một trong những điều quan trọng của bất kì ai khi lớn lên đến tuổi dựng vợ gả chồng. Và một người, muốn lấy được vợ thì hẳn cuộc sống phải có đầy đủ điều kiện, có hoàn cảnh tương đối tốt mới có đủ điều kiện để lấy vợ – gả chồng.
Nhưng đây lại khác. Ta ngạc nhiên khi từ “vợ” trang trọng cao quý ấy lại đi đôi với với từ “nhặt”. Từ nhặt đã làm từ vợ trở thành một danh từ chung, chỉ sự nhỏ bé và xem như một sự rẻ rúng, coi như rơm như rác có thể ‘nhặt” được ở bất kì đâu. ĐƯợc xem như một vật vô giá trị, không ra gì,. Người vợ gần như bị coi như không được xem trọng, người vợ không còn ở vị trí trung tâm của việc xay dựng tổ ấm. Người ta thường hay nói tới việc “cưới vợ” chứ ai có nói đến việc “nhặt vợ” vậy mà Tràng lại Nhặt vợ. Đó thật sự thâu tóm một giá trị hiện thực, sự khốn cùng của hoàn cảnh, của nạn đói lúc bấy giờ ở nước ta.
Hơn nữa, nhan đề còn thể hiện tình cảnh thê lương, thảm cảnh của người dân 1945 bộc lộ một sự cưu mang, đùm bọc. Một thái độ cao đẹp của con người khi biết chia sẻ, bao bọc thể hiện ngòi bút nhân đạo thái độ nhà văn luôn để họ vươn lên khát vọng hướng tới tổ ấm hạnh phúc và niềm tin của con người trong bất kì hoàn cảnh nào.
Kim Lân đã xây dựng một hình ảnh và một thái độ vô cùng ấn tượng và đẹp đẽ. Nó không chỉ khiến ta có ấn tượng với câu truyện, mà còn là một trong những nhan đề hay, xuất sắc, độc đáo, thâu tóm được giá trị nội dung hấp dẫn và tài năng của nhà văn.
Ý Nghĩa Nhan Đề Các Tác Phẩm Văn Học Lớp 9
Wap Hay, Wap Giải Trí, Wap Tai Game Miễn Phí
Tìm Gì Cũng Có…
– Tình đồng chí là cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính cách mạng; là nốt nhấn và là lời khẳng định về tình đồng chí. (trong bài thơ tác giả đã tập trung làm nổi bật nội dung này.)
3. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)
– Nhan đề làm nổi bật một hình ảnh rất độc đáo của toàn bài và đó là hình ảnh hiếm gặp trong thơ – hình ảnh những chiếc xe không kính.
– Vẻ khác lạ còn ở hai chữ ” bài thơ” tưởng như rất thừa nhưng là sự khẳng định chất thơ của hiện thực, của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, vượt lên nhiều thiếu thốn, hiểm nguy của chiến tranh.
4. Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải)
-Tên bài thơ là một sáng tạo độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ.
– Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ là biếu tương cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của sự sống và của cuộc đời mỗi con người.
– Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân,nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp vào mùa xuân lớn của đất nước của cuộc đời.
– Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng.
5. Làng (Kim Lân)
– Đặt tên “Làng” mà không phải là “Làng chợ Dầu” vì nếu thế thì vấn đề tác giả đề cập tới chỉ nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của một làng cụ thể.
– Đặt tên là “Làng” vì truyện đã khai thac một tình cảm bao trùm, phổ biến trong con người thời kì kháng chiến chống Pháp: tình cảm với quê hương ,với đất nước.
– Làng ở đây cũng chính là cái Chợ Dầu mà ông Hai yêu như máu thịt của mình, nơi ấy với ông là niềm tin, là tình yêu và niềm tự hào vô bờ bến là quê hương đất nước thu nhỏ.
– Chủ đề của tác phẩm là viết về lòng yêu nước của người nông dân – làng nơi gần gũi, gắn bó với người nông dân, người ta không thể yêu nước nếu không yêu làng.
– Nhan đề Làng gợi hình ảnh người nông dân và nông thôn, đây là mảng sáng tác thành công nhất của Kim Lân.
Vì vậy, nhan đề tác phẩm rất hay và giàu ý nghĩa.
6. Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long)
– Lặng lẽ Sa Pa, đó chỉ là cái vẻ lặng lẽ bên ngoài của một nơi ít người đến, nhưng thực ra nó lại không lặng lẽ chút nào, bởi đằng sau cái vẻ lặng lẽ của Sa Pa là cuộc sống sôi nổi của những con người đầy trách nhiệm đối với công việc, đối với đất nước, với mọi người mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng một mình trên đỉnh núi cao
– Tạo ra sự đối lập nhan đề tác phẩm tác giả muốn làm nổi bật nội dung, ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm.
7. Ánh Trăng (Nguyễn Duy)
– Ánh trăng chỉ một thứ ánh sáng dịu hiền, ánh sáng ấy có thể len lỏi vào những nơi khuất lấp trong tâm hồn con người để thức tỉnh họ nhận ra những điều sai trái, hướng con người ta đến với những giá trị đích thực của cuộc sống.
8 . Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm)
– Những em bé chứ không phải một em bé nhằm mang tính khái quát. Chỉ một thế hệ những con người lớn lên được nuôi dưỡng từ trên lưng mẹ. Người mẹ Tà Ôi trong tác phẩm cũng là đại diện cho các bà mẹ Việt Nam có tình yêu con gắn liền với tình yêu đất nước.
9. Bến Quê (Nguyễn MInh Châu)
– Bến: tức là chỗ đỗ, chỗ đậu
– Quê hương (gia đình, vợ con)và những gì thân thương nhất chính bến đỗ của cuộc đời.
– Câu chuyện thức tỉnh mỗi chúng ta phải biết trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị, gần gũi của gia đình, quê hương.
10. Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê)
– Hình ảnh ngôi sao thường biểu tượng cho cái đẹp, sự trong sáng, biểu tượng cho tương lai rực rỡ.
– Những ngôi sao trong truyện chính là những cô gái, biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng của những cô thanh niên Trường Sơn.
– Ở họ luôn có những phẩm chất tốt đẹp, sức tỏa sáng kì diệu nhưng không rực rỡ chói chang.
Ánh sáng ấy không phô trương mà phải chịu khó tìm hiểu chúng ta mới cảm nhận được vẻ đẹp kì diệu. Các chị xứng đáng là “những ngôi sao xa xôi” trên đỉnh Trường Sơn, những ngôi sao dẫn đường cho dân tộc Việt Nam đi tới thắng lợi. .
11. Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)
– Vì chiếc lược ngà là kỷ vật cuối cùng ông Sáu dành cho con.
12. Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Lặng lẽ Sa pa”:
Tác giả đặt tên truyện là “Lặng lẽ Sa pa” vì Sa pa là nơi có khí hậu mát mẻ, trong lành, nơi có không gian tĩnh mịch, yên ắng, thơ mộng- nơi nghỉ mát nổi tiếng, lí tưởng. Thế nhưng, bên trong cái vỏ yên tĩnh, lặng lẽ ấy là cả một cuộc sống sôi động của những con người đầy trách nhiệm, tâm huyết đối với công việc, đối với đất nước.
Họ là những nhà khoa học không có tên. Tên của họ gắn liền với công việc. Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn với cách sống, cách nghĩ cao đẹp, đáng khâm phục, đáng yêu. Đó là ông kỹ sư vườn rau Sa pa ngày này qua ngày khác ngồi cặm cụi miệt mài ngoài vườn, chăm chú rình xem cách con ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào, để rồi nghĩ ra cách thụ phấn cho hàng vạn cây su hào, lai tạo và cho ra giống su hào to hơn, ngọt hơn, tốt hơn phục vụ cho nhân dân toàn miền Bắc. Đó là anh cán bộ chuyên nghiên cứu sét ở trung tâm đã 11 năm không một ngày xa cơ quan, lúc nào cũng luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, để lập bản đồ tìm ra nguồn tài nguyên trong lòng đất. Những con người ấy, họ đã làm việc thầm lặng, cống hiến sức lực của mình để xây dựng đất nước.
13. Ý nghĩa nhan đề bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”
– Nhiều nhà thơ đã viết về mùa xuân với những sắc thái khác khau: Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử); Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính); Xuân ý, Xuân lòng (Tố Hữu)… Trong bài thơ này, ý nguyễn của tác giả là muốn làm một mùa xuân nhưng là một mùa xuân nho nhỏ – với khát khao được đóng góp chút công sức nhỏ bé của mình làm đẹp thêm mùa xuân của đất nước.
– Nhan đề của bài thơ là một sáng tạo độc đáo của Thanh Hải: “Mùa xuân nho nhỏ” là một cách nói hình tượng. Mùa xuân là cái trừu tượng, không hình hài cụ thể được diễn đạt một cách thực tế gắn với tính từ nho nhỏ, một từ láy có tính gợi tình.
– Nhan đề đó đắc biệt ở chỗ: mùa xuân là một khái niệm trừu tượng, chỉ mùa xuân nhưng lại được đặt cạnh nho nhỏ là một tính từ, nên mùa xuân trở nên hiện hữu, có hình khối. Tên bài thơ gợi hấp dẫn.
– Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ là biểu tượng cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của sự sống và cuộc đời mỗi con người.
– Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường, là một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân của đất nước của cuộc đời.
– Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng đồng. .
14. Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Bến quê”:
“Bến quê” là những gì gần gũi, thân thương nhất với Nhĩ. Đó là những cành hoa bằng lăng đậm sắc với những cánh hoa màu tím thẫm; là cái bờ đất lở dốc đứng, có chuyến đò ngang chạy qua mỗi ngày; là cái bãi bồi màu mỡ, tươi tốt nằm phơi mình bên kia sông Hồng; là người vợ hiền thục, đảm đang, ân nghĩa, thủy chung sẵn sàng chịu đựng, hy sinh, dành tất cả tình cảm yêu thương, chăm chút cho anh trong những ngày tháng cuối đời; là bầy trẻ với những ngón tay “chua lòm mùi nước dưa”; là ông lão láng giềng sẵn sàng giúp đỡ, hỏi han, động viên anh mỗi ngày… Tất cả là những gì giàu có, đẹp đẽ, thuần phác, cổ sơ nhất của mảnh đất quê hương xứ sở- nơi đã sinh thành ra anh và sẽ đón nhận anh về khi anh nhắm mắt xuôi tay. Đó còn là mái ấm gia đình- điểm tựa để anh cất cánh bay cao đồng thời cũng là nơi nương tựa vững chắc, bình yên của anh trong những ngày tháng cuối đời. Đó là nơi neo đậu bình yên nhất của cuộc đời mỗi con người.
Nhan đề “Bến quê” có ý nghĩa thức tỉnh mọi người sự trân trọng những vẻ đẹp và giá trị bình dị, gần gũi mà đích thực của cuộc sống, của quê hương. Đó cũng là thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc được cô đúc qua nhan đề của tác phẩm.
15. Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”:
“Những ngôi sao xa xôi” là hình ảnh ẩn dụ về ba cô thanh niên xung phong (Nho, chị Thao, Phương Định) trong tổ Trinh sát mặt đường, trên một cao điểm ác liệt thuộc tuyến đường Trường Sơn,
Họ là những hình ảnh tiêu biểu cho thế hệ nữ thanh niên xung phong thời chống Mĩ. Ở họ có những phẩm chất tốt đẹp và sức tỏa sáng kì diệu. Đó là thứ ánh sáng lấp lánh, thoắt ẩn thoắt hiện xa xôi, mà lại có sức mê hoặc lòng người. Các chị quả thật xứng đáng là những ngôi sao sáng lấp lánh trên đỉnh Trường Sơn. Tuy xa xôi mà gần gũi trong lòng yêu thương cảm phục của mọi người, mọi thời đại.
16. Ý nghĩa nhan đề bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”:
Nhan đề bài thơ khá dài, ta tưởng chừng như có chỗ thừa. Nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ khác lạ, độc đáo của nó. Nhan đề của bài thơ làm nối bật hình ảnh toàn bài: những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó, am hiểu hiện thực của nhà thơ về đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Đồng thời, nhà thơ lại thêm vào nhan đề hai chữ “bài thơ” cho ta thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả, không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn khẳng định chất thơ toát lên từ hiện thực trần trụi ấy.
Đó là chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, bất khuất, trẻ trung, vượt trên mọi thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.
Nguồn: http://langsao.vn/ (sưu tầm)
–
Cập nhật thông tin chi tiết về Ý Nghĩa Nhan Đề Chiếc Thuyền Ngoài Xa trên website Thanhlongicc.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!